Từ cuối năm 1986, một tàu dưới dạng đánh cá, không số của nước ngoài đến vùng
biển Đông, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu biển xuống phía Nam, tăng số lần
tàu chiến, tàu vận tải hoạt động trinh sát, thăm dò ở khu vực Trường Sa. Đặc
biệt là từ ngày 24 đến 30 tháng 12 năm 1986, máy bay và tàu chiến của nước ngoài
tiến hành các hoạt động trinh sát từ đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền
Chài, gây nên tình hình căng thẳng về tranh chấp chủ quyền vùng biển của Việt
Nam.
Ngày 31 tháng 12 năm 1986, một nước trong khu vực Đông Nam Á đưa lực lượng chiếm
bãi Kỳ Vân, uy hiếp các đảo khác gần đảo Thuyền Chài. Đầu năm 1987, nước ngoài
đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao và tăng cường đưa tàu chiến đi lại gần khu vực
đảo Thuyền Chài. Tiếp đó, trong năm 1987, tàu Hải Dương 4 và một số tàu của nước
ngoài tiến hành trinh sát phần lớn các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, trong đó có
cả những đảo ta đang giữ; đặt bia kỷ niệm ở đảo Ma-i-xi-ti, huy động tàu qua lại
khu vực các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa, Trường Sa Đông, Song Tử Tây, có
lúc chỉ cách ta khoảng một hải lý; đồng thời tăng cường các hoạt động trinh sát,
xâm nhập, khai thác trái phép tài nguyên vào sâu vùng nội thủy của ta. Tàu nước
ngoài đưa lực lượng chiếm giữ hai đảo Kỳ Vân và Kiệu Ngựa ở phía nam quần đảo
Trường Sa. Có nước tăng cường lực lượng củng cố các đảo đang chiếm giữ và đưa
thêm lực lượng đến vận chuyển xây dựng kiên cố ở Song Tử Tây, Loại Ta và một số
đảo khác, gây tình hình căng thẳng ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chỉ thị cho
Quân chủng Hải quân đưa lực lượng ra củng cố, giữ vững các đảo đang chốt giữ,
tăng cường thế phòng thủ các đảo theo từng cụm, từng khu vực, bảo đảm khi có
chiến sự xảy ra có thể chi viện hỗ trợ kịp thời giữ vững đảo; đưa lực lượng đóng
giữ một số bãi ngầm mới trong khu vực quần đảo Trường Sa. Tiếp đó, Bộ Chính trị,
Đảng ủy quân sự Trung ương ra nghị quyết về việc quyết tâm bảo vệ chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trước mắt là quần đảo Trường Sa, là
nhiệm vụ khẩn trương, quyết liệt, lâu dài, là nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta; khôngchỉ riêng của lực lượng vũ trang, mà các cấp, các
ngành, địa phương có liên quan cũng phải đóng góp tích cực.
Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra chỉ thị giao
nhiệm vụ cho Quân chủng Hải quân phải bảo vệ các đảo của ta, đặc biệt là không
ngừng tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, bao gồm cả việc củng cố và
xây dựng thêm các công trình chiến đấu và bảo đảm trong sinh hoạt; đồng thời đưa
lực lượng ra đóng các bãi đá cạn. Trước mắt đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Tây,
Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ; khai thác và phát huy mọi khả năng của các lực lượng
vũ trang, các ngành, các địa phương để chi viện từ bờ ra đảo xa. Nếu tàu nước
ngoài xâm phạm đảo, hoặc dùng vũ lực uy hiếp thì đánh trả và tỉnh táo, không bị
khiêu khích
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
ngày 12 tháng 1 năm 1987, Đảng ủy Quân chủng họp đánh giá tình hình thực hiện
nhiệm vụ trong năm 1986 và đề ra nhiệm vụ công tác năm 1987. Nhận định về tình
hình trên biển, Đảng ủy Quân chủng nêu rõ: Tất cả các khu vực biển tình hình vẫn
căng thẳng phức tạp, vẫn diễn ra các hoạt động xâm nhập, trinh sát của tàu nước
ngoài tranh chấp chủ quyền tài nguyên, gây tình hình căng thẳng, có thể dẫn đến
xung đột vũ trang đánh chiếm, hoặc tập kích vào các đảo, căn cứ trên đất liền,
nhất là quần đảo Trường Sa. Toàn quân chủng phải đề cao tinh thần cảnh giác, sẵn
sàng chiến đấu cao, đối phó hiệu quả mọi tình huống, đập tan mọi âm mưu, thủ
đoạn xâm phạm trái phép, bảo vệ chủ quyền vùng biển và hải đảo của Tố quốc.
Ngày 24 tháng 10 năm 1987, Tư lệnh Hải quân ra mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn
sàng chiến đấu cho lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, tránh âm
mưu khiêu khích của tàu nước ngoài; đồng thời chỉ thị cho các Lữ đoàn 125 chuẩn
bị tàu, pông-tông sẵn sàng đưa lực lượng ra Trường Sa, chuyển các tàu của Lữ
đoàn 172 vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, cơ động ra phía trước và Trung đoàn
83 chuẩn bị lực lượng, phương tiện, sẵn sàng cơ động đến xây dựng đảo.
Những tháng cuối năm 1987, Quân chủng điều chuyển một số tàu thuộc các Lữ đoàn
146, 125 đưa bộ đội đến tăng cường lực lượng đóng giữ các đảo thuộc quần đảo
Trường Sa. Ngày 28 tháng 10, tàu 613 đưa một phân đội chiến đấu thuộc Lữ đoàn
146, một trung đội công binh, do đồng chí Nguyễn Trung Cảng, Phó Lữ đoàn trưởng
chỉ huy ra đóng giữ đảo Đá Tây. Do sóng to gió lớn, gặp khó khăn trong xây dựng
công sự chốt giữ, nên sau một thời gian, tàu 613 chở bộ đội về Cam Ranh. Ngày 2
tháng 12 năm 1987, tàu HQ 604 thuộc Lữ đoàn 125 đưa bộ đội cùng vật liệu đến xây
nhà cấp 3 ở đảo Đá Tây. Sau một thời gian lao động khẩn trương, cán bộ, chiến sĩ
đã hoàn thành khu nhà ở, nhà trực, tổ chức canh gác, bảo vệ đảo.
Cùng thời gian này, Quân chủng tăng cường lực lượng xây dựng thế trận phòng thủ
trên các đảo và vùng biển phía Nam. Quân chủng tăng cường thêm phương tiện
choVùng 4 hải quân, bảo vệ vị trí neo đậu cho tàu thuyền tại khu vực giàn khoan.
Hàng ngày, thường duy trì 2 tàu bảo vệ khu vực khai thác dầu khí, xua đuổi tàu
lạ, bảo vệ an toàn cho công tác thăm dò khai thác dầu khí. Thực hiện kế hoạch
phối hợp hiệp đồng trong hoạt động bảo vệ biển đảo ở khu vực phía Nam do Bộ Tổng
Tham mưu đề ra, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo; Sở chỉ huy Quân chủng hiệp đồng với
Quân chủng Không quân tổ chức nhiều chuyến bay biển quan sát, nắm tình hình hiệp
đồng với Đặc khuVũng Tàu - Côn Đảo, Quân khu 7 xây dựng và thực hiện kế hoạch
bảo vệ khai thác dầu khí. Hoạt động tuần tiễu ở khu vực giàn khoan của Hải quân
lúc cao nhất có 6 tàu của Lữ đoàn 171 và Hải đoàn 129. Một số tàu đánh cá đến
hoạt động trái phép ở khu vực thềm lục địa, hoặc tàu lạ xuất hiện đã bị hải quân
ta ngăn chặn, xua đuổi, bảo vệ an toàn khu vực tài nguyên thuộc chủ quyền vùng
biển của Việt Nam.
Theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến trên biển và khu vực quần đảo Trường Sa, ngày 9
tháng 1 năm 1988, Đảng ủy Quân chủng họp nhận định: Hải quân nước ngoài sẽ tiến
hành các hoạt động quân sự tranh chấp chủ quyền hải đảo chiếm một số bãi san hô
nổi hoặc chìm khi nước lên, xen kẽ với các đảo của ta. Các nước ngoài có thể
tranh chấp thêm các đảo kể cả khi có xung đột với nhau. Cũng có nước có thể
chiếm đóng một số đảo nằm giữa Kỳ Vân và Ri-gân. Cuộc tranh chấp các đảo đang
trở thành nguy cơ trực tiếp đe dọa Việt Nam và các nước trong khu vực. Ở Bắc Bộ,
nước ngoài có thể triển khai thêm khu vực khai thác dầu khí, sử dụng không quân
và hải quân bảo vệ gây tình hình căng thẳng ở khu vực này. Ở vịnh Thái Lan, Hải
quân Mỹ thường xuyên qua lại có thể hỗ trợ cho hải quân Thái Lan mở rộng hoạt
động, gây mất ổn định, uy hiếp chủ quyền vùng biển, hải đảo của ta ở phía Nam.
Trên cơ sở nhận định, đánh giá tình hình, Đảng ủy Quân chủng đề ra chủ trương:
Tranh thủ thời gian, triệt để triển khai lực lượng đóng giữ trên các đảo. Không
để nước ngoài thực hiện ý đồ cho lực lượng đóng xen kẽ với ta, hoàn thành việc
đóng giữ các đảo trong ba năm (1988-1990). Trong năm 1988, triển khai lực lượng
đóng giữ phải hết sức bí mật, đóng đảo nào, bảo đảm phòng thủ tốt trên đảo đó.
Đồng thời tăng cường số lần hoạt động tuần tiễu, bảo vệ vịnh Bắc Bộ, vùng biển
Tây Nam. Bảo vệ vùng biển, hải đảo trong biển Đông trở thành vấn đề chiến lược
của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó Hải quân nhân dân là lực lượng nòng
cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo của Tổ quốc.
Đảng ủy Quân chủng xác định: "Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền vùng biển và quần đảo
Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất, khẩn trương nhất và cũng là vinh dự của
Quân chủng".
Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy Quân chủng, Bộ Tư lệnh Hải quân lệnh cho lực
lượng tàu, bộ đội công binh và lực lượng của cơ quan chuyển vào Cam Ranh, sẵn
sàng đưa bộ đội ra đóng giữ đảo. Bộ Tư lệnh Hải quân chấp hành nghiêm chỉ thị,
mệnh lệnh của trên, sáng tạo, bình tĩnh, dũng cảm và kiên quyết phối hợp với các
lực lượng khác đấu tranh cả về chính trị, ngoại giao, quân sự, hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển hải đảo và thềm lục
địa của Tổ quốc, không để chiến tranh lan rộng ra khắp quần đảo, chỉ đạo cơ quan
Bộ Tham mưu, các cục Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật và các đơn vị làm tốt công tác
tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, chỉ đạo và thực hiện tốt việc di chuyển cơ quan,
Sở chỉ huy Quân chủng, củng cố duy trì nền nếp công tác của bộ phận còn lại ở
phía Bắc (Sở chỉ huy hậu phương),chỉ đạo triển khai tăng cường thông tin liên
lạc ở Cam Ranh, thành phố Hồ Chí Minh, quần đảo Trường Sa, chú trọng mạng thông
tin hiệp đồng quân binh chủng, chỉ đạo bảo đảm hàng hải, thả phao tiêu đánh dấu
luồng lạch ở Trường Sa, chỉ đạo công tác vật tư tài chính công binh bảo đảm hoàn
thành kế hoạch xây dựng công trình, công sự chiến đấu, thiết bị chiến trường ở
quần đảo Trường Sa, chỉ đạo công tác tuyển quân, nắm chắc số, chất lượng phương
tiện chiến đấu, đề xuất xin và đóng mới phương tiện và bảo đảm quân số cho lực
lượng tàu chiến đấu, lực lượng đóng quân trên đảo; chỉ đạo tăng cường công tác
nắm địch, tăng thêm phương tiện, lực lượng nắm địch, chỉ đạo công tác tuyển quân
và huấn luyện chiến đấu.
Ngày 22 tháng 1 năm 1988, nước ngoài đưa 4 tàu gồm: hộ vệ tên lửa, tuần dương,
tàu dầu, tàu đổ bộ và một số tàu khác đến chiếm đóng đảo Chữ Thập. Tiếp đó, nước
ngoài đưa một lực lượng lớn gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 khu trục tên lửa, 4 tàu
bảo đảm đậu xung quanh đảo, khống chế không cho tàu thuyền các nước qua lại để
bảo vệ đảo Chữ Thập. Hải quân nước ngoài còn tổ chức ba cụm tuyến hoạt động gồm:
Cụm phía sau lấy Hoàng Sa làm căn cứ thường xuyên có tàu hộ vệ pháo, hộ vệ tên
lửa, khu trục tên lửa, tuần dương, các tàu ngầm và tàu hộ tống nhằm ngăn cản, uy
hiếp lực lượng tàu hải quân ta hoạt động ở vịnh Bắc Bộ, gây khó khăn cho ta
trong việc triển khai hoạt động bảo vệ vùng biển phía Nam; cụm ngăn chặn lực
lượng hải quân ta ở đông bán đảo Cam Ranh, Cù Lao Thu và cụm Chữ Thập âm mưu
khống chế ta ở khu vực Trường Sa, nếu có thời cơ phát triển lực lượng xuống khu
vực phía Nam.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân, ngày 23 tháng 1 năm 1988, tàu 613
thuộc Vùng 4 hải quân chở lực lượng và vật liệu ra đảo Tiên Nữ. Sau hai ngày vật
lộn với sóng to, gió lớn, tàu đến Tiên Nữ. Phương châm xây dựng là làm đến đâu
chắc đến đó. Đầu tháng 2 năm 1988, cán bộ, chiến sĩ trên đảo hoàn thành nhà ở
cấp 3, nơi sinh hoạt, bếp ăn và triển khai phương án sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
đảo.
Ngày 27 tháng 1 năm 1988, tàu HQ-611 và tàu HQ-712, do đồng chí Công Phán, Lữ
đoàn trưởng Lữ đoàn 146 làm biên đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thế Dân, Phó tham
mưu trưởng Vùng 4 hải quân làm biên đội phó, chỉ huy 1 đại đội công binh và 2
khung đảo của Lữ đoàn 146 đến đóng giữ đảo Chữ Thập. Ngày 29 tháng 1, tàu bị
hỏng máy phải dừng lại sửa chữa, đồng chí Nguyễn Thế Dân chuyển sang tàu HQ-07
thuộc Lữ đoàn 171 đi làm nhiệm vụ bảo vệ đảo Đá Lớn. Đồng chí Công Phán ở lại,
sau khi tàu sửa chữa xong tiếp tục chỉ huy biên đội tiến về phía đảo Chữ Thập.
Sáng ngày 30 tháng 1, khi cách đảo 5 hải lý, thì phát hiện 4 tàu chiến đấu của
nước ngoài, gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo ra ngăn cản, có lúc chỉ
cách 300m, không cho tiếp cận đảo, tàu đành phải quay về Trường Sa Đông, không
thực hiện được việc đóng giữ đảo Chữ Thập như kế hoạch đề ra.
Ngày 4 tháng 2 năm 1988, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng họp nhận định: Nước ngoài
đã cho quân đóng trên đảo Chữ Thập, trước mắt ta chưa đóng xen kẽ vì họ ngăn
chặn ta từ xa. Họ có thể mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các đảo Châu Viên, Đá
Đông, Đá Nam, Tốc Tan và đóng xen kẽ những bãi đá ta đang đóng giữ. Do đó, ta
phải nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Lát, Đá Lớn, Châu Viên. Thực hiện
Nghị quyết của Thường vụ Đảng ủy Quân chủng, Tư lệnh Hải quân điện cho biên đội
tàu 611 và 712 đang neo đậu ở đảo Trường Sa Đông đưa bộ đội đến đóng giữ đảo Đá
Lớn trước 3 giờ ngày 5 tháng 2 năm 1988. Tình hình nhiệm vụ của Quân chủng ở
quần đảo trường Sa khẩn trương, cấp bách. Được sự đồng ý của trên, Quân chủng
thành lập Sở chỉ huy tiền phương tại Cam Ranh, do đồng chí Giáp Văn Cương làm Tư
lệnh kiêm tư lệnh Vùng 4. Các cơ quan: tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật
đều tổ chức các bộ phận tiền phương của ngành để kịp thời giải quyết mọi mặt
theo yêu cầu đóng giữ, bảo vệ Trường Sa và DKI. Cục Kỹ thuật đã chỉ đạo các nhà
máy, xưởng trạm, kho tàng lập các tổ đội sửa chữa động thường trực tại các khu
vực Cam Ranh, Nha Trang, Đà Nẵng, Vũng Tàu và bám theo tàu thuyền các đơn vị để
sửa chữa, bảo đảm kỹ thuật cho các hoạt động đóng giữ, bảo vệ các đảo và căn cứ.
Chấp hành mệnh lệnh của Tư lệnh Hải quân, tàu 611 và tàu 712 đưa lực lượng công
binh và bộ đội của Lữ đoàn 146 đến đảo Đá Lát. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Công
Phán, bộ đội phân chia lực lượng thành 3 tổ chiến đấu canh gác; đồng thời tổ
chức lực lượng làm nhà cấp 3. Đến ngày 20 tháng 2, lực lượng công binh được sự
hỗ trợ của lực lượng đóng giữ đảo hoàn thành nhà và bàn giao cho lực lượng bảo
vệ đảo.
Trong khi đó, ở hướng Đá Lớn, ngày 13 tháng 2, thực hiện nhiệm vụ Tư lệnh Hải
quân giao, Lữ đoàn 125 cho tàu 505 kéo tàu LCU 556 cùng bộ phận làm nhà cao chân
đóng giữ đảo Đá Lớn. trong khi ta đang tiến về phía đảo, thì phát hiện tàu khu
trục và hai tàu hộ vệ tên lửa của nước ngoài cũng tiến về phía Đá Lớn. Khi ta
cách Đá Lớn khoảng 4 hải lý, tàu nước ngoài thả thủy lôi ngăn cản, uy hiếp ta.
Trước tình hình đó, ban chỉ huy tàu 505 họp nhận định: nước ngoài chưa biết ý đồ
của ta đưa lực lượng ra đóng giữ đảo, việc thị uy không liên quan đến hành
trình, ta cứ cho tàu chạy theo hướng đã định. Tàu 505 bình tĩnh, khôn khéo đưa
tàu LCU 556 tiếp tục tiến về phía bắc đảo. Ngày 20 tháng 2, sau khi quan sát
thăm dò luồng, tàu 556 tiến vào phía nam đảo an toàn. Cùng thời gian này, tàu
Đại lãnh của công ty trục vớt cứu hộ Sài Gòn kéo tàu HQ-582 và pông-tông Đ02 đi
Đá Lớn. Ngày 27 tháng 2, tàu xuất phát từ thành phố Hồ Chí Minh, đến ngày 1
tháng 3, pông-tông Đ02 vào đến vị trí phía bắc đảo Đá Lớn. Cán bộ, chiến sĩ trên
pông-tông Đ02 và lực lượng trên tàu LCU đã đến triển khai lực lượng, xây dựng
thế trận phòng thủ bảo vệ đảo Đá Lớn.
Tháng 2 năm 1988, nước ngoài tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống
hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa, gây tình hình hết sức căng thẳng. Ngày
18 tháng 2, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng họp đề ra chủ trương: "Ta phải kiên
quyết đóng nhanh, đóng đồng thời tất cả các đảo đã có kế hoạch. Nếu cần có thể
dùng mọi loại tàu để ủi bãi, không làm như vậy sẽ không kịp ngăn chặn nước ngoài
tiếp tục mở rộng phạm vi chiếm đóng thêm".
Lúc này nhiệm vụ đóng giữ đảo của cán bộ, chiến sĩ các Lữ đoàn 146, 125 và Trung
đoàn công binh 83 ngày càngtrở nên quyết liệt. trung tuần tháng 2 năm 1988, thực
hiện mệnh lệnh của Sở chỉ huy Quân chủng, Lữ đoàn 125 đưa pông-tông 7 ra giữ Tốc
Tan. Trong khi đó, tại Đá Đông, một đảo chìm rộng giữ vị trí quan trọng trong
quần đảo, Sở chỉ huy Quân chủng lệnh cho tàu 661 đưa lực lượng ra cắm cờ, canh
gác; đồng thời lệnh cho tàu 605 chở vật liệu, bộ đội chốt giữ đảo của Lữ đoàn
146 và lực lượng công binh của Trung đoàn 83 ra xây dựng, bảo vệ. Trong bối cảnh
hải quân nước ngoài có thể khiêu khích ngăn chặn, song các tàu của ta đã bình
tĩnh vượt qua sóng gió đưa bộ đội và vật liệu đến đảo an toàn. Nhờ sự kết hợp
chặt chẽ giữa các lực lượng tàu, đảo, công binh, công việc triển khai xây dựng
nhà, công sự đã hoàn thành theo đúng kế hoạch, bảo đảm yêu cầu kỹ thuật. Ta
triển khai lực lượng bảo vệ đảo. Các tàu 605, 604 tiếp tục ở lại làm nhiệm vụ
bảo vệ vòng ngoài Đá Đông. Như vậy đến tháng 3 năm 1988, lực lượng Hải quân ta
đã triển khai xây dựng xong thế trận phòng thủ trên các đảo Đá Lát, Đá Đông, Tốc
Tan, Tiên Nữ và Đá Lớn, đưa tổng số đảo đóng giữ của ta lên 16, trong đó gồm 9
đảo nổi, 7 đảo chìm.
Trong những tháng đầu năm 1988, nước ngoài cho quân chiếm đóng một số bãi đá
thuộc khu vực quần đảo Trường Sa. Trước tình hình đó, ngày 4 tháng 3 năm 1988,
Thường vụ Đảng ủy Quân chủng họp nhận định: Nước ngoài đã cho quân chiếm giữ Chữ
Thập, Châu viên, Ga ven, Xu Bi, Huy Gơ. Ta xây dựng thế trận phòng thủ ở các đảo
Tiên Nữ, Đá Lát, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, bước đầu ngăn chặn được hành động mở
rộng phạm vi chiếm đóng của hải quân nước ngoài ra các đảo lân cận. Song đối
phương có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và
đông kinh tuyến 115 độ
Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng
xác định: Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để hải quân nước ngoài chiếm giữ sẽ
khống chế đường qua lại của ta tiếp tế, bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa. Vì
vậy, Thường vụ Đảng ủy Quân chủng hạ quyết tâm đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin
và Len Đao. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khẩn trương, bởi trong cùng một
lúc hải quân ta phải triển khai đóng giữ cả 3 đảo trong điều kiện phương tiện,
trang bị của ta cũ, thô sơ, lực lượng hạn chế. Thường vụ Đảng ủy Quân chủng giao
cho Lữ đoàn 125 cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ này.
Trong khi đó, hải quân nước ngoài sau khi chiếm giữ trái phép Chữ Thập, Châu
viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi cũng đang ý đồ chiếm giữ ba đảo Gạc Ma, Cô Lin,
Len Đao nhằm gây thanh thế ở khu vực Trường Sa và trên biển Đông. Đầu tháng 3
năm 1988, nước ngoài huy động lực lượng của 2 hạm đội xuống khu vực quần đảo
Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên có từ 9 đến 12 tàu chiến
gồm: khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ; tàu
hỗ trợ gồm 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và một pông-tông lớn. Việc
nước ngoài đưa một lực lượng lớn tàu chiến, tàu vận tải đến hoạt động đã gây nên
tình hình căng thẳng ở khu vực quần đảoTrường Sa.
Trước tình hình đó, ngày 31 tháng 3 năm 1988, Tư lệnh Hải quân lệnh cho Vùng 4,
Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146; các hải đội 131, 132, 134 của Lữ đoàn 172 chuyển trạng
thái sẵn sàng chiến đấu cao; đồng thời lệnh cho Vùng 1, Vùng 3 và Lữ đoàn 125 ở
Hải phòng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Bộ Tư lệnh Hải quân
điều động 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ đoàn 125, Cục Kinh tế, Vùng 1,
Vùng 3, Vùng 5, Trường sĩ quan Hải quân, Nhà máy Ba Son, X51 tiếp nhận 3 tàu của
nhà nước, 3 tàu của Tổng cục Hậu cần và 2 tàu của Quân khu 5 đến phối thuộc hoạt
động khi cần thiết.
Thực hiện quyết tâm của Thường vụ Đảng ủy Quân chủng, ngày 12 tháng 3 năm 1988
tàu 605 (Lữ đoàn 125) do đồng chí Lê Lệnh Sơn làm thuyền trưởng được lệnh từ Đá
Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988. Sau 29 giờ
hành quân bí mật, khẩn trương vượt qua sóng to, gió lớn, tàu 605 đến Len Đao lúc
5 giờ ngày 14 tháng 3 và cắm cờ Tổ quốc trên đảo, khẳng định chủ quyền và quyết
tâm bảo vệ đảo của bộ đội ta.
Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đảo Gạc Ma và Cô Lin, 9 giờ ngày 13 tháng 3 năm
1988, tàu HQ-604 do đồng chí Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng và tàu HQ-505 do đồng
chí Vũ Huy Lễ làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô
Lin. Phối hợp với hai tàu 604 và 505 có 2 phân đội công binh (70 người) thuộc
Trung đoàn 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146, do đồng chí Trần
Đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy và 4 chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo đạc và
biên vẽ bản đồ (Bộ Tổng Tham mưu). Sau khi hai tàu của ta thả neo được 30 phút,
tàu hộ vệ của nước ngoài từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma, có lúc cách ta 500m. 17
giờ ngày 13 tháng 3, tàu nước ngoài áp sát tàu 604 ta và dùng loa gọi sang khiêu
khích. Bị tàu nước ngoài uy hiếp, cán bộ, chiến sĩ hai tàu 604 và 505 động viên
nhau giữ vững quyết tâm không để mắc mưu, kiên trì neo giữ quanh đảo. Tàu chiến
đấu của nước ngoài cùng 1 tàu hộ vệ, 2 tàu vận tải thay nhau cơ động, chạy quanh
đảo Gạc Ma.
Trước tình hình căng thẳng do hải quân nước ngoài gây ra, lúc 21 giờ ngày 13
tháng 3, Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ thị cho các đồng chí Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ,
Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma, Cô Lin. Tiếp đó, Bộ Tư
lệnh Hải quân chỉ thị: Khẩn trương thả xuồng máy, xuồng nhôm, chuyển vật liệu
làm nhà lên đảo ngay trong đêm ngày 13 tháng 3. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư
lệnh Hải quân, tàu 604 cùng lực lượng công binh Trung đoàn 83 chuyển vật liệu
lên đảo Gạc Ma, tiếp đó, lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ, cắm cờ Tổ quốc
và triển khai 4 tổ bảo vệ đảo.
Lúc này, nước ngoài điều thêm 2 tàu hộ vệ trang bị pháo 100mm đến hỗ trợ tàu có
từ trước khiêu khích đe dọa ta rút khỏi đảo Gạc Ma. Ban chỉ huy tàu 604 họp nhận
định tàu nước ngoài có thể dùng vũ lực can thiệp và quyết định chỉ huy bộ đội
bình tĩnh xử trí, thống nhất thực hiện theo phương án tác chiến đề ra, quyết tâm
bảo vệ Gạc Ma.
6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, đối phương thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ
lên đảo tiến về phía cờ ta đang tung bay. Dựa vào thế đông quân, đối phương tiến
vào giật cờ ta. Lập tức, thiếu úy Trần Văn Phương, hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh cùng
đồng đội anh dũng giành lại cờ. Binh lính của đối phương đã dùng lưỡi lê đâm và
bắn nguyễn Văn Lanh bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương xông vào cứu, bị đối
phương bắn, đã anh dũng hy sinh. Trước lúc hy sinh, Trần Văn Phương đã hô: "Thà
hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền
thống của Quân chủng Hải quân”. Sự hy sinh anh dũng của Trần Văn Phương đã nêu
tấm gương sáng cho các đơn vị noi theo, quyết tâm chiến đấu, bảo vệ hải đảo của
Tố quốc.
Không uy hiếp được bộ đội ta rút khỏi đảo, 7 giờ 30 phút ngày 14 tháng 3, đồi
phương dùng hai tàu bắn pháo 100mm vào tàu 604, làm tàu ta bị hỏng nặng. Đối
phương cho quân xông về phía tàu ta. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ đã bình tĩnh chỉ
huy bộ đội trên tàu sử dụng các loại súng AK, RPĐ, B40, B41 đánh trả quyết liệt,
buộc binh lính đối phương phải nhảy xuống biển trở về tàu của họ. Trận đánh diễn
ra mỗi lúc quyết liệt. Các đồng chí Trần Đức Thông, Vũ Phi Trừ vừa chỉ huy bộ
đội chiến đấu, vừa tổ chức băng bó, cứu chữa thương binh và hỗ trợ các chiến sĩ
bảo vệ cờ. Đối phương tiếp tục nã đạn, làm tàu ta bị thủng nhiều lỗ và hỏng nặng
chìm dần xuống biển. Đồng chí Vũ Phi Trừ, thuyền trưởng; đồng chí Trần Đức
Thông, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 cùng một số cán bộ, chiến sĩ tàu đã anh
dũng hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đảo Gạc Ma.
Tại đảo Cô Lin, 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-505 đã cắm 2 lá cờ trên
đảo. Khi tàu 604 của ta bị chìm, đồng chí Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng tàu 505 ra
lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 của ta đang cơ động lên bãi, hai
tàu của đối phương quay sang tiến công tàu 505. Bất chấp hiểm nguy, tàu 505 chạy
hết tốc độ, trườn lên được hai phần ba thân tàu thì bốc cháy. 8 giờ 15 phút ngày
14 tháng 3, bộ đội tàu 505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đảo,
vừa đưa xuồng đến cứu vớt cán bộ, chiến sĩ tàu 604 bị chìm. Tàu HQ-505 bị bốc
cháy. Cán bộ, chiến sĩ của tàu dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đã
hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, bảo vệ chủ quyền đảo Cô Lin.
Ở hướng đảo Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, tàu của đối phương bắn mãnh
liệt vào tàu HQ-605 của ta. Tàu 605 bị bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15 tháng
3. Cán bộ, chiến sĩ của tàu dìu nhau bơi về đảo Sinh Tồn an toàn.
Như vậy, trước tình hình hải quân nước ngoài gây ra những vụ khiêu khích quân sự
ở xung quanh khu vực Quần đảo Trường Sa, Bộ Tư lệnh Hải quân đã chỉ đạo, chỉ huy
các đơn vị dũng cảm chiến đấu bảo vệ Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao; đồng thời triển
khai lực lượng đóng giữ các đảo khác, giữ vững chủ quyền quần đảo, vùng biển và
thềm lục địa Việt Nam. Trong trận chiến đấu ngày 14 tháng 3 năm 1988, ta bị tổn
thất: 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương, 70
đồng chí bị mất tích. [1. Sau này, đối phương trao trả ta 9 đồng chí, còn 61
người mất tích.]
Mặc dù so sánh lực lượng chênh lệch, phương tiện, vũ khí hạn chế, cán bộ và
chiến sĩ hải quân đã chiến đấu dũng cảm, bảo vệ chủ quyền hải đảo của Tổ quốc.
Các đơn vị hải quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Bộ Chính trị, Đảng ủy quân
sự Trung ương và Bộ Quốc phòng giao phó. Với chiến công oanh liệt, tàu HQ-505
được Nhà nướctuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Các đồng chí Vũ
Phi Trừ, Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh, Trần Văn Phương được truy
tặng và phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hàng chục tập
thể và cá nhân được tặng thưởng huân chương Quân công, huân chương chiến công
các loại.
Ngày 7 tháng 5 năm 1988, tại lễ kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Hải quân nhân dân,
Đại tướng Lê Đức Anh, ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy quân sự Trung
ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến thăm cán bộ, chiến sĩ trên quần đảo Trường Sa.
Đại tướng biểu dương: "Hải quân đã tích cực, kiên trì thực hiện nghị quyết của
Bộ Chính trị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về bảo vệ quần đảo Trường Sa. Mặc dù
có nhiều khó khăn, song đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao".Tại cuộc mít
tinh ở đảo Trường Sa, Đại tướng phát biểu nhấn mạnh: "Nhân kỷ niệm ngày thành
lập Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo chính của quần đảo Trường Sa, có mặt
đông đủ các Tổng cục, các quân chủng, đại biểu tỉnh Phú Khánh (nay là Phú Yên,
Khánh Hoà), chúng ta xin thề trước hương hồn của Tổ tiên ta, trước hương hồn của
cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa trước đồng bào cả nước, xin nhắn
nhủ với các thế hệ mai sau: Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của
chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải
thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta". [1. Lịch sử Hải quân nhân dân
Việt Nam (1955-1995) - Biên niên sự kiện, Sđd, tr. 251
Nhằm tăng cường khả năng xây dựng, bảo vệ Quần đảo Trường Sa - DK1, từ năm 1987
Quân chủng được Bộ Tổng Tham mưu điều chuyển bổ sung hàng chục xe tăng T54,
K63-85, hàng chục khẩu súng pháo (chủ yếu là ĐKZ, pháo 85mm và 37mm), tiếp nhận
hàng chục tấn vũ khí, đạn. Năm 1988, Nhà nước, Bộ Quốc phòng tiếp tục tăng cường
vũ khí trang bị kỹ thuật cho Hải quân như pháo D30, 122mm, 23mm, tên lửa phòng
không, súng phóng lựu AGF... để Quân chủng trang bị cho các đảo. Nhà nước điều
các tàu Sông Thao, Hạ Long 01, Bạch Đằng 18 cho Hải quân. Liên Xô viện trợ cho
ta 1 tàu kéo 3000CV, 1 tàu nước 1300CV, 6200m xích neo, 38 neo lớn... Chính phủ
đã quyết định cấp cho Quân chủng 1.150 tấn thép, 20 tấn tôn múi, 1.450 tấn xi
măng, 700 m3 gỗ tròn, 3,5 tấn que hàn, 4 xe Kpan, 1 xe xúc, 2 xe cần cẩu (quyết
định số 26). Tiếp theo Chính phủ quyết định cấp cho Quân chủng 4.000 tấn thép,
50 tấn tôn mạ, 20 tấn cát, thép, 178 tấn que hàn, 1.080 tấn xi măng (M500),
5.000 tấn xi măng (M300),1 500 tấn xăng dầu, 200 bộ săm lốp, 1.262m3 gỗ, 2.500m
vải bạt,... cùng một số vật tư khác để Quân chủng đẩy mạnh công tác đóng 10
pông-tông, làm 12 nhà cấp 2 cho các đảo chìm. Chính phủ còn huy động 6 pông-tông
của Bộ Giao thông vận tải, giao cho Bộ Giao thông vận tải thiết kế xây dựng cầu
tàu ở đảo Trường Sa, lắp pin mặt trời cho các điểm đảo cùng một số bộ vi-đê-ô
cát-xét (video casset) cho bộ đội ở đảo. Cùng với các quyết định của trên, Chính
phủ, Bộ Quốc phòng giao cho Quân chủng Hải quân ký hợp đồng với các nhà máy đóng
tàu: Bạch Đằng, Hạ Long để đóng tàu vận tải 1.000 tấn - 980CV, những tàu này
trang bị cho Lữ đoàn 125. Được tăng cường vũ khí trang bị kỹ thuật, nhất là tàu
thuyền, súng pháo,... khả năng sức mạnh chiến đấu của hải quân được củng cố. Đây
là cơ sở bảo đảm cho Quân chủng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đóng giữ, bảo vệ
quần đảo Trường Sa - DK1. Hoạt động của Quân chủng đã thu hút được sự quan tâm
của quân và dân cả nước đều vì Trường Sa, hết lòng chi viện sức người, sức của
cho Trường Sa.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Ban Bí Thư Trung ương Đảng,
theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Hải quân, từ tháng 6 năm 1988, các tỉnh Quảng Nam
-Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Quảng Ninh, Bình. Trị - Thiên, thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố Hải phòng và Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, mỗi địa phương đảm nhận
làm nhà cấp 1 ở đảo. Theo kế hoạch, tháng 8 năm 1988, các tỉnh Bình - Trị -
Thiên, Nghĩa Bình, Quảng Nam - Đà Nẵng đã hoàn thành xây nhà ở các đảo Đá Nam,
Đá Lớn, Tốc Tan. Các địa phương khác do triển khai chậm bị ảnh hưởng thời tiết
nên hoàn thành chậm. Bộ Tư lệnh công binh phải triển khai làm 8 khung nhà cấp 2,
cử cán bộ kỹ thuật, lực lượng thi công ra xây dựng ở hai đảo Đá Tây và Đá Thị.
Còn hai đảo Cô Lin và Len Đao, do Quân chủng Hải quân đảm nhiệm xây dựng nhà cấp
2 khung nhà sắt do Bộ Tư lệnh công binh thiết kế. Đến cuối tháng 8 năm 1988, ta
đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng các loại nhà cấp 1, 2, 3, nâng tổng số lên 21
đảo và bãi đá ngầm với 32 điểm đóng giữ, hình thành 5 cụm đảo; đồng thời tập
trung củng cố cơ sở bảo đảm ở các đảo trung tâm của từng cụm gồm: Song Tử, Nam
Yết, Trường Sa, Phan Vinh, Thuyền Chài. Các đảo được tăng cường quân số, hỏa
lực, công trình phòng thủ, tạo thành thế chiến đấu liên hoàn từng cụm đảo trong
thế trận phòng thủ chung, góp phần bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền vùng biển, thềm
lục địa và vùng kinh tế đặc quyền của Tổ quốc.
Để tăng cường khả năng phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu thực hiện ý định, chủ
trương của Bộ Quốc phòng, tháng 9 năm 1988 Quân chủng hiệp đồng với Quân chủng
phòng không - Không quân và lực lượng vũ trang Quân khu 5 luyện tập trên vùng
biển từ Khánh Hòa đến BìnhThuận. Qua diễn tập (có bắn đạn thật) đã đúc rút được
nhiều vấn đề quan trọng về chiến thuật, kỹ thuật. Cũng qua thực hiện nhiệm vụ,
Xưởng Ba Son, X51 được Nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhất,
Z753 được tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhì do lập được nhiều thành
tích xuất sắc trong bảo vệ Trường Sa và DK1. Trong khi tập trung cho nhiệm vụ
bảo vệ Trường Sa và DK1, ngành kỹ thuật vẫn tiếp tục chỉ đạo Xưởng Ba Son và X51
sửa chữa đốc nổi 1.000 tấn, các tàu 206M, LCU, LCM-8, LCM-6, PCF cho Hải quân
Cam-pu-chia.
Tháng 11 năm 1988, tổng kết 13 năm giúp bạn Lào, Hải quân nhân dân Việt Nam đã
đóng 4 tàu vận tải, lắp máy cho 5 tàu vỏ gỗ, bảo đảm kỹ thuật và viện trợ 14 tàu
PBR, 33 tấn phụ tùng, sửa chữa 97 tàu, trang bị 56 máy công cụ, khôi phục Xưởng
Chi-nai-mô, đào tạo 56 thợ kỹ thuật, Cục Kỹ thuật Hải quân được Nhà nước Lào
tặng thưởng Huân chương ít-xa-la hạng nhì.
Trong khi ta đang củng cố, xây dựng thế trận phòng thủ trên các đảo thuộc Quần
đảo Trường Sa, hải quân nước ngoài tiếp tục có những hoạt động trên vùng biển
Đông. Ngày 5 tháng 7 năm 1988, Đảng ủy Quân chủng họp nhận định: Sau những hành
động khiêu khích quân sự vừa qua, nước ngoài sẽ tiếp tục có những âm mưu cô lập
hạn chế hoạt động của ta để mở rộng quyền kiểm soát, khống chế vùng biển Đông.
Đúng như dự đoán của ta, trên vùng biển và xung quanh khu vực quần đảo Trường
Sa, nước ngoài thường xuyên duy trì từ 10-15 tàu, trong đó có 4-6 tàu chiến. Đầu
tháng 9 năm 1988, hải quân nước ngoài đưa tàu trinh sát bằng vô tuyến điện xuống
trinh sát 21 đảo ta đang đóng giữ, uy hiếp chiếm lại khi thời cơ thuận lợi và
tuyên truyền về chiến lược biển và kinh tế biển, tập trung vào dầu khí thuộc khu
vực thềm lục địa phía Nam của Việt Nam.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng tại khu vực thềm lục
địa phía Đông Nam thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cụm kinh tế, khoa học, dịch vụ
phục vụ phát triển kinh tế đất nước và giao nhiệm vụ cho Quân chủng Hải quân bảo
vệ. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày 26 tháng 10 năm 1988, đồng
chí Phó đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho Lữ đoàn 171
làm nhiệm vụ bảo vệ thềm lục địa phía Đông Nam (DK1). Đây là vùng có ý nghĩa
chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng - an ninh của đất
nước.
Chấp hành chỉ thị của Tư lệnh Hải quân, ngày 6 tháng 11 năm 1988, một biên đội
hai tàu HQ-713 và HQ-688 thuộc Lữ đoàn 171, do các đồng chí Phạm Văn Thư, Nguyễn
Hồng Thưởng chỉ huy rời cảng ra khơi. Sau hơn mười ngày hành quân trên biển, hai
tàu đã đến vị trí tiến hành đo đạc khảo sát, đánh dấu, xác định vị trí thả neo
làm nhà trên vùng biển rộng 60.000 km2. Trên cơ sở đó, ngày 26 tháng 11, Sở chỉ
huy Quân chủng lệnh cho hai tàu HQ-713 và HQ-668 (Hải đoàn l71), do trung tá
Hoàng Kim Nông, Phó Lữ đoàn trưởng về chính trị chỉ huy và hai tàu HQ-727,
HQ-723 (Lữ đoàn 129), do trung tá Trần Xuân Vọng, Hải đoàn trưởng chỉ huy trực
sẵn sàng chiến đấu ở DK1. Ngày 28 tháng 11 năm 1988, bốn lá cờ đỏ sao vàng tung
bay trên bốn điểm ở khu vực DK1 khẳng định chủ quyền vùng biển của Tổ quốc. Tại
đây, các tàu bố trí lực lượng canh gác, bảo vệ chủ quyền tài nguyên của đất
nước.
Trong trận chiến đấu
ngày 14/3/1988, ta bị tổn thất : 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 đ/c hy sinh, 11
đ/c bị thương, 70 đ/c bị mất tích (sau này TQ trao trả ta 9 đ/c, 61 người mất
tích).
Mặc dù so sánh lực lượng chênh lệch, phương tiện, vũ khí hạn chế, cán
bộ và chiến sĩ hải quân đã chiến đấu dũng cảm, bảo vệ chủ quyền hải đảo của Tổ
quốc.
Trích "Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam
1955-2005"
Vụ này hậu quả xảy ra do ta không lường đến mức
độ khốc liệt mà phía TQ sẵn sàng gây ra, do bị ru ngủ trong hoàn cảnh chiến sự
biên giới phía Bắc đang bước vào hòa hoãn. Do vậy nhiệm vụ không có các tàu
chiến yểm trợ kịp thời mà chỉ dùng các tàu vận tải như vẫn dùng ở vùng quần đảo.
Thiệt hại quá đau đớn và bất ngờ.
Sau chiến dịch CQ-88 này bị thiệt hại
và mất đảo, các chiến dịch CQ-89 và CQ-90 đã thực hiện tốt nhiệm vụ chiếm, bám
trụ và xây dựng hàng loạt các trạm hải quân trên các đảo chìm trong vùng. Tình
hình luôn căng thẳng giữa 2 bên từ đó đến nay, tuy nhiên với sự tăng cường lực
lượng của ta, phía TQ đến thời điểm này chưa gây hấn thêm 1 vụ nào. Trong thời
gian đó, ta đã nhiều lần nổ súng cảnh cáo và nổ súng cả vào các tàu của
Philippin xâm nhập vùng chủ quyền.
Quân đội ta vẫn luôn giữ được bản
lĩnh vươn lên qua thất bại, hy vọng sẽ tiến chiếm hầu hết các vùng tranh chấp
chưa có quân đóng trong thời gian vài năm tới.
Anh hùng Trần Văn Phương
Bài thơ trên có nhắc đến thiếu úy Trần Văn Phương. Đó là Anh Hùng LLVT,chiến sĩ
Hải Quân hy sinh trong trận bảo vệ bãi Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa trước
cuộc tấn công xâm lược của quân Trung Quốc vào lúc 07 giờ sáng ngày 14/03/1988.
Sinh quán Quảng Trạch,Quảng Bình.Vào bộ đội năm 1983,ra bảo vệ đảo Sinh Tồn từ
02/1984.Sau khi đi học trường quân chính,được phong thiếu úy ,trung đội trưởng
trung đội 1.đại đội 7,tiểu đoàn 862 ,lữ đoàn Trường Sa.
19 giờ ngày 11/03/1988 anh xuống tàu HQ 604 rời cảng ra đảo Gạc Ma.Trước khi
xuống tàu,nắm chặt tay trung úy trung đội 1 Lê Văn Thoan,người cùng xã,
nói:”Hoàn thành nhiệm vụ trong chiến dịch CQ 88 (chủ quyền 88) này ,mình sẽ cùng
với cậu về phép thăm nhà.Nhà mình bị bão đổ năm ngoái,vẫn chưa làm xong…”
Thiếu úy Trần Văn Phương
Sáng ngày 14/03 từ tàu 604 đang thả neo tại bãi Gac Ma,Trần Đức Thông ,cán bộ
chỉ huy phát hiện thấy bốn chiếc tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần.Ban
chỉ huy quyết định một tổ ba người gồm thiếu úy Trần Văn Phương và hai chiến sỹ
Nguyễn Văn Tư,Nguyễn Văn Lanh được phân công bảo vệ lá cờ của ta cắm trên bãi.
Phía đối phương lộ rõ âm mưu muốn lấn chiếm đảo:với 2 xuồng chở 8 lính có vũ khí
lao thẳng về phía ta.Trần Đức Thông ra lệnh cho các chiến sỹ từ tàu 604 tiến vào
bảo vệ bãi,để hình thành tuyến phòng thủ,không cho địch tiến lên.Mặc cho địch
hăm doạ,chiến sỹ ta tuyên bố “Đây là lãnh thổ của Việt Nam,các tàu của Trung
Quốc phải rời ngay!” Nhưng đối phương hung hăng dùng 4 ca nô chở khoảng 100 lính
trang bị đày đủ vũ khí,máy VTĐ,đổ bộ lên bãi Gạc Ma…Cùng lúc đó,tàu chiến 502
của Trung Quốc có trang bị tên lửa và pháo 100 milimét và các tàu khác đã xả
súng lớn bắn chìm và cháy các tàu chở hàng 604,605 và 505 của ta.Những thủy thủ
thoát ra khỏi các tàu chìm ,bơi lênh đênh trên biển bị đối phương xả súng bắn và
dùng câu liêm móc lên tàu.
TQ thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo tiến về phía cờ ta đang tung bay.
dựa vào thế đông quân, TQ tiến vào giật cờ ta. Lập tức, thiếu úy Trần Văn
Phương, hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh cùng đồng đội anh dũng giành lại cờ. Binh lính của
TQ đã dùng lưỡi lê đâm và bắn Nguyễn Văn Lanh bị thương. Thiếu úy Trần Văn
Phương xông vào cứu, bị TQ bắn đã anh dũng hy sinh. Trước lúc hy sinh, Trần Văn
Phương đã hô : " Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô
thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân ". Sự hy sinh anh dũng của Trần
Văn Phương đã nêu tấm gương sang cho các đơn vị noi theo, quyết tâm chiến đấu,
bảo vệ hải đảo của Tổ quốc.[...]
Chiều ngày 14/03 trên bãi chỉ còn một chiếc xuồng và 40 chiến sỹ sống sót sau
cuộc bắn phá dã man của quân Trung Quốc.Thượng úy Nguyễn Văn Chương và trung úy
Nguyễn Sỹ Minh tổ chức đưa thương binh và chiến sĩ về tàu 505 –sau khi bị bắn
cháy,nằm trên bãi Cô lin.Thi hài Phương ,Tư cùng các thương binh nặng được đặt
trên xuồng.Số người còn sức,một tay bám thành xuồng,một tay làm mái chèo đưa
xuồng lết trên mặt nước để tới bãi Cô lin.