Chương 9 : Kẻ cầm đầu chế độ
Hai ngày sau khi Phan Rang sụp đổ, tỉnh lỵ anh em với nó là Phan Thiết cũng bị
Bắc Việt Nam chiếm nốt. Thế là Cộng Sản kiểm soát 20 tỉnh, trọn vẹn 2 quân khu,
hai phần ba Nam Việt Nam rồi. Ở Sài Gòn, các thế lực đều đòi thủ cấp chính trị
của Thiệu, kẻ cầm đầu chế độ.
Phe tự nhận là trung lập của Sài Gòn, không thích Cộng Sản và không thích chống
+ cũng muốn Thiệu ra đi. Phe cực hữu cũng muốn Thiệu ra đi, và éo le thay, chính
họ lại công khai tấn công vào sự tham nhũng của tổng thống.
Từ tháng 9-1974, nhóm này đã phổ biến “bản cáo trạng số 1”. Các nhật báo Sài Gòn
đăng cáo trạng này đều bị tịch thu nhưng vẫn còn rất nhiều bản được chuyền tay
trong dân chúng khắp đất nước. Những lời tố cáo đó mang tính chất nghiêm trọng
và có giá trị tài liệu.
Thiệu, với lợi tức chỉ vài trăm đôla hàng tháng mà có hai căn nhà ở Sài Gòn, trị
giá hơn 150 nghìn đôla, một nhà thuỷ tạ ở sát phía Bắc Sài Gòn, một “vila tráng
lệ” ở Thuỵ Sĩ, nhiều đất đai ở vô số tỉnh. Vợ Thiệu xây cái gọi là bệnh viện cho
người nghèo, đã dùng hàng lậu thuế để trang trải việc xây dựng, bòn rút ngoại
viện vào túi và kết cục thì dân nghèo không thể vào bệnh viện này. Anh vợ Thiệu
thì đầu cơ nâng giá phân bón hóa học do Mỹ cung cấp, bán cho nông dân với giá
cắt cổ. Cố vấn cho Thiệu là Đặng Văn Quang và Trần Thiện Khiêm tổ chức buôn
thuốc phiện lậu. Một người cô của Thiệu tích trữ đầu cơ và nâng giá gạo, thâu
tóm nhiều phương tiện vận tải để làm giàu. Thiệu còn “nhận quà” bằng đất đai,
dùng công binh xây trang trại riêng…
Những lời tố cáo như bom nổ. Tuy bản cáo trạng thứ hai không gây náo động như
bản cáo trạng thứ nhất, nhưng lại được dư luận rộng rãi tin. Thế là những người
cánh hữu cương quyết đòi uống máu Thiệu về mặt chính trị. Còn ở mức độ rộng lớn,
quân đội Sài Gòn muốn Thiệu ra đi vào tuần thứ nhì của tháng 4-1975. Đây là lá
phiếu quan trọng nhất chống lại tổng thống. Sau 10 năm ở chức vụ cao nhất tại
Nam Việt Nam trong đó 8 năm làm tổng thống, năm 1975 Thiệu là người giàu nhất
Nam Việt Nam nhờ tham nhũng. Trong chức vụ, Thiệu không hề được phép nhận hơn số
lương 600 đôla mỗi tháng, và có lẽ từ 300 đến 400 đôla phụ cấp. Thế nhưng dù xét
bất cứ tiêu chuẩn nào, thì Thiệu đã và vẫn còn giàu sụ.
Làm thế nào giàu được, đó là chuyện phức tạp và quanh co. Những gì sắp kể ra đây
chắc chắn là không đủ. Cái biết được là với hai trường hợp ngoại lệ-một vila ở
Thuỵ Sĩ và một ngân hàng Sài Gòn bị phá sản-còn tên thì cả Thiệu lẫn tên vợ
Thiệu đều không tim thấy trong bất cứ hồ sơ nào. Thế mà họ đã trở nên giàu có.
Theo các cuộc phỏng vấn và các nguồn điều tra khác thì gia đình Thiệu đã ăn cắp
hàng trăm triệu đôla. Đó là tiền thuế của dân Mỹ và dân chúng đất nước họ.
Công cuộc làm tiền của Thiệu là dựa trên chiến tranh và môi trường cuộc chiến do
viện trợ Mỹ nuôi dưỡng. Có lẽ Thiệu thành thật tin rằng không bao giờ thương
lượng được với Cộng Sản. Thiệu tin như vậy nên cuộc chiến tiếp tục. Bởi vì cuộc
chiến tiếp diễn nên Thiệu và gia đình Thiệu giàu thêm. Ở hạ tầng, sự tham nhũng
đơn giản. Nhưng ở thượng tầng, nó là một mạng lưới phức tạp. Cũng như đảng
maphia, nó lấy việc bảo vệ tay thủ lĩnh làm mục đích chính.
Ở hạ tầng, nó là sự mua bán thế lực vụn vặt, bảo vệ và tống tiền. Một tiệm thuốc
đường Catinat bán công khai thuốc cần sa nha phiến cho lính Mỹ vì chủ tiệm được
cảnh sát bảo vệ. Các chỉ huy Mỹ cấm lính tới đó vì thuốc ma tuý được chuyển qua
gái bán bar. Những tay buôn gỗ ở Tây Nguyên hoạt động được vì các cấp chỉ huy
quân đội được trả một số phần trăm lợi nhuận. Tiền lời ngừng trả thì đoàn xe trở
gỗ bị phục kích bởi "du kích Việt Cộng"
Khi tham nhũng trở nên quan trọng và số tiền dính líu nhiều hơn thì hệ thống trở
thành một mạng lưới hình tháp. Ngồi trên đỉnh tháp tham nhũng tại Nam Việt Nam
là Thiệu. Tháp chỉ là công cụ tổ chưc không nhất thiết là con đường chuyển tiền.
Bằng cách cho những người xung quanh cái tháp ấy tự kiếm ăn, Thiệu tạo được ân
nghĩa và những món nợ quyền lực. Từ 1965 - 1975, y đã tạo hàng ngàn hoặc hàng
vạn ơn nghĩa. Khi cần đền đáp thì lớn bé trong cái tháp ấy răm rắp tuân theo.
Phải hiểu rằng ở Nam Việt Nam, dù hiến pháp có được tuân theo triệt đểthì tổng
thống vẫn có quyền lực bao la. Thiệu có quyền nhiều hơn cả hiến pháp cho phép.
Là chủ tịch hội đồng tướng lĩnh, một cơ quan nằm ngoài hiến pháp, Thiệu nắm
quyền hành trưởng hội đòng này. Là tổng tư lệnh quân đội, đứng đầu tổ chức hành
chính công vụ, một tay Thiêuh nắm hơn 3 triệu chỗ làm, một nửa chỗ công ăn việc
làm của chế độ. Thiệu giữ toàn quyền bổ nhiêm thăng thưởng, giáng và cách chức 3
triệu người giữ các chỗ làm ấy, không uỷ nhiệm cho ai.
Tiền bạc tuồn lọt từ cao xuống thấp và ngược lại. Mỗi cấp rut bớt phần ra để
chia xẻ cho họ. Đó là hoạt động của đường dây tham nhũng. Nhưng hình như Thiệu
không thèm làm. Tiền hậu tạ của chủ hiệu Bar, kiều dân nhập cư bất hợp pháp...
không đến tay Thiệu. Y thu lượm ân nghĩa và dùng ơn nghĩa giúp tay tổng thống
này lám giầu theo các kế hoạch riêng. Phương pháp thu lượm ơn nghĩa được G.
Lansdale mô tả như sau:
"... Guồng máy dân sự và quân sự hoạt động theo một chế độ chủ nhân xoay quanh
mỗi tư lệnh quân đoàn. Mỗi người đã bổ nhiệm và cách chức một tỉnh trưởng, quận
trưởng". Năm 1975, Thiệu bổ nhiệm và cách chức thường xuyên 4 tư lệnh quân đoàn,
nắm phần lớn lớn việc bổ nhiệm tư lệnh sư đoàn, như vậy là còn nắm quyền kiểm
soát nhiều hơn cái chế độ mà Lansdale đã nói trong năm 1958. Một thí dụ đặc biệt
cho thấy cách thứ hoạt động của Thiệu. Năm 1973 y thăng cấp lên tướng 3 sao cho
Nguyễn Vĩnh Nghi và bổ nhiệm Nghi làm tư lệnh quân đoàn 4, tức là Nam Bộ. Nghi
được tự do xoay xở làm giầu. Vào giữa nam 74, các nguồn tin sứ quán Hoa Kỳ nói
rằng 8.000 điện đài và 25.000 khẩu súng M.16 và vũ khí nhỏ khac đã biến mât khỏi
kho quân khu 4 trong thời gian Nghi làm tư lệnh. Bản cáo trạng số 1 buộc Thiệu
có hành động tượng trưng để dẹp tham nhũng, thì tay tổng thống đã phải cách chưc
Nghi. Hai tướng lĩnh khac thuộc quân khu 3 đã bị nhôt năm 1974 khi những người
đi điều tra của cả quân đội SG lẫn sứ quán Hoa Kỳ nói là tụi này đã cố tình bán
gạo cho Việ Cộng. Hai người đó là Trần Quốc Lịch của sư đoàn 25 Tây Bắc SG và Lê
Văn Tư của sư đoàn 5 ở hướng Bắc thủ đô. Việc bán lương thực và trang bị quân sự
cũng như giấy hoãn quân dịch trong 2 sư đoàn đã làm hai đơn vị này về mặt tác
chiến trở nên vô hiệu lực. Đến lúc chúng buộc phải ném vào trận đánh ở SG tháng
4-1975 thì sư đoàn 25 đã không thể nào hành quân như lực lượng chiến đấu.
Những bổ nhiệm vào hàng tá chức vụ như thế là do Thiệu làm ra, với cách tính
toán là tạo ra ơn nghĩa để dùng sau này. Một viên tướng được Thiệu bổ nhiệm là
có thể tự do xây dựng mạng lưới tham nhũng riêng của mình. Kiếm tiền bằng cách
ghi vào sổ lương sư đoàn những lính ma. Bán những chỗ làm việc an toàn tránh xa
chiến trường cho binh sĩ nào muốn và đủ sưc trả cái giá đưa ra. Bán trang bị
dành cho đơn vị ra chợ trời, thậm chí bán cả cho Việt cộng. Họ cố tránh bán vũ
khí sợ Mỹ biêtthí phải mở cuộc điều tra, còn đồ dùng nhà ăn tập thể, quân phục,
xe Jeep, giầy cao cổ thì mang lại nhiều tiền và các mặt hàng này tràn trề ngoài
chợ trời chứng tỏ các sĩ quan cao cấp phải nhúng tay vào. Xăng trở thành mặt
hàng đắt khách ở chọ trời sau khi khối Ả rập nâng giá. Một số tướng lĩnh SG rỗ
ràng đã điều khiển các đường dây, bảo vệ đám con buôn chợ trời và buôn lậu.
Họ làm tiền thế nào, Thiệu không cần để ý. Chỉ có quy định ngầm là phải tránh
các đường dây do tay tổng thống này và gia đình điều khiển. Thiệu côt tạo ơn
nghiã và ta sẽ xem ân nghĩa được đáp trả như thế nào?
Tướng lĩnh do Thiêubổ nhiệm có quyền bổ nhiệm cấp thuộc hạ của mình. Ở đây, tiền
mặt được trao tay. Chỗ làm cao giá nhất là chỉ huy trưởng cảnh sát Chợ Lớn, khu
người Hoa. Chức vị đó khoảng 15 triệu tức khoảng 130.000 đô la. Chỗ này dễ kiếm
tiền đến nỗi chỉ sau 2-3 tháng là đủ tiền trả chỗ. Các đại tá quân đội phải mua
80.000 đô la nếu muốn làm tỉnh trưởng Châu Đốc, giáp biên giới với Cambodia.
Nguồn thu chính là qua các tay buôn lậu trâu bò, tiền lời đến theo đầu súc vật
qua biên giới.
Đi dần lên trong các cấp chính quyền, hầu hết các bộ trưởng đã xoay xở làm giầu
bằng tham nhũng. Điển hình là Phạm Kim Ngọc, bộ trưởng kinh tế được Mỹ thích, đã
xoay xở mở được trương mục 8 triệu đô la ở Đài Loan bằng cách lấy "tiền hoa
hồng" do việc đảm bảo những hợp đồng của các công ty muốn làm ăn ở Việt Nam.
Nhưng so chuyện Thiệu và gia đình tay tổng thống này làm thì các chuyện trên
không đáng kể. hai người làm tấm che gió án ngữ sự tham nhũng hàng triệu đô la
cho Thiệu là Nguyễn Thị Mai Anh, vợ thiệu và Lý Long Thân, tên chồng người Hoa
của cô em gái nuôi Mai Anh. Những số tiền lớn từ đó đi vào các trương mục ngân
hàng của Thiệu ở Singapore, Thuỵ Sĩ, chia lời thầm lặng ở Đài Loan, Guam, Hawai
vv...
Những dính líu của Mai anh khó xac lập thành hồ sơ. Mụ ta là một tay mê say kim
cương có tiếng. Trong các cuộc chiêu đãi, mụ ta bàn bạc về kim cương một cách
thông thạo với các mệnh phụ trong đoàn ngoại giao và khách mời. Mai Anh thường
đeo một viên kim cương lớn khi đi ra ngoài và luân chuyển các nữ trang kim cương
thành sưu tập lớn. Theo một số người thì mụ ta có một bộ sưu tập về kim cương
hạng nhất châu Á, cả về số lưọng lẫn chất lượng.
Nguồn thu nhập quan trọng của Thiệu là buôn lậu, cả trong lẫn ngoài Việt Nam.
Kim lọai vụn: đồng, sắt, đặc biệt đồng là món hàng xuất khẩu béo bở nhất. Đồng
là phần còn lại của những viên đạn và đại bác bắn đi. Sắt là tàn tích của xe
tăng, xe vận tải và máy bay bị hư hại trong chiến tranh. Kim loại vụn lúc đó là
mặt hàng được giá trên mọi thj trường, đặc biệt tại Nhật vì giá thép tăng cao.
Một triệu lính bắn biết bao đạn dược. Họ dùng hỏng bao nhiêu xe tăng, xe vận
tải, xe jeep, máy bay, điện đài, máy đánh chữ. Trong lúc rut đi, nó bị bỏ lại ở
chiến trường, được thu gọn về các kho sắt vụn và bắt đầu cuộc đời mới là vật làm
ra tiền cho Thiệu.
Bản thân việc buôn lậu thì đơn giản, cần it người nhúng tay. Kẻ nào nhúng tay
đều mang ơn nghĩa của Thiệu. Chính vào giai đoạn này của cuộc làm ăn, tay tổng
thống này mới gọi đến những tướng tá vốn mắc nợ Thiệu về chức vụ mang ân nghĩa
đến. Trả ơn thật đơn giản. Các anh hãy quay mặt đi đúng lúc và ra lệnh cho thuộc
hạ cũng làm như thế.
Kim loại phế thải trở bằng xe nhà binh, phủ bạt kín để tránh các cặp mắt tò mò.
Điểm trở hàng đến thường là cẳng SG. Tay tổng thống cũng dễ dàng đòi các viên
chức ở đây quay mặt đi chỗ khác. Tầu chở thuê đăng ký quốc tịch Panama, thuỷ thủ
là người Nam Triều Tiên. Ra đến biển khơi thì các tay tài phiệt Mỹ mới nhúng tay
vào.
Mai Anh đích thân lo việc lấy tiền hàng. Lý Long Thân thì sắp xếp các chi tiết
tẩy xoá sự tham nhũng ở các ngân hàng Đài Loan, Hongkong, Singapore, Philipin,
Guam. Mai Anh thỉnh thoảng dùng lý do che đậy là đi thăm con ở châu Âu để bỏ
tiền vào ngân hàng hay biến nó thành đồ nữ trang. Trong một chuyến đi như vậy
năm 1972, Mai Anh đã mua một villa ở Thuỵ Sĩ.
Việc buôn lậu ra nước ngoài đáng trách nhưng it gây hậu quả cho cuộc chiến. Buôn
lậu trong nước gây chết chóc, kéo dài chiến tranh và giúp sức trực tiếp cho Việt
Cộng. Hàng không Việt Nam (Air Vietnam) từ SG bay đến 11 thành phố châu Á nằm
dưới quyền điều khiển của Trung. Con trai Trung là chồng con gái Thiệu. Các
khoang chứa hàng của máy bay E Vietnam (Air Vietnam) từ Tokyo, Hongkong,
Singapore về đều chất đầy hàng. Rượu, thuốc lá, son phấn, hàng điện tử, cúc áo,
đồ dùng phòng ăn... hầu hết những thứ nhét lọt qua khoang chở hàng đều có mặt
trên các chuyến bay phản lực về Việt Nam, được biết là đều theo chỉ thj của vợ
Thiệu. Hàng về, binh sĩ SG bao quanh máy bay đông nghẹt. Họ bốc xuống xe nhà
binh những thùng rượu Pháp, hàng Nhật, Hongkong trước con mắt của khách nhìn qua
cửa sổ.
Sự tham nhũng của Thiệu đặc biệt có hại cho Nam Việt Nam kể rừ 1972 trở đi, khi
Nam Việt Nam chệnh choạng trên bờ vực phá sản. Viện trợ của Mỹ giảm, giá hàng
lại tăng. Thiệu, đám bạn bè và gia đình tay tổng thống mỗi ngày một giầu. Dân
chúng thì mất niềm tin ở tổng thống của họ. Đến giữa tháng tư, khi Thiệu bước
sang năm thứ 10 làm quốc trưởng Nam Việt Nam thì sức ép đãquá lớn rồi. Vấn đề
không còn là Thiệu có ra đi hay không mà phải ra đi và như thế nào.
Chỉ có Graham Martin là không muốn Thiệu ra đi. Theo lời một số người trong đám
thân tín của viên đại sứ thì Martin cho rằng "Thiệu là tổng thống duy nhất mà
chúng ta (Mỹ) có thể kiếm được". Cái mà Martin hy vọng là Thiệu chịu thương
lượng với Hà Nội để tìm kiếm hoà bình. Martin đã mất không biết bao thời gian để
thuyết phục Thiệu. Như vậy thì buộc Thiệu phải quỳ xuống van xin thương lượng để
Hà Nội và Việt Cộng nhổ nước bọt vào mặt mình. Thiệu không chịu và chiến tranh
cứ kéo dài.
Chương 10: "Guốc bai - ông Mỹ"
Đêm ấy, khi SG đã đi ngủ thì tổng thống Ford bắt tay hành động ở Washington.
Những lời chỉ trích đã lên đến tột cùng, tất cả nhằm tố cáo Martin kéo dài lê
thê cuộc di tản người Mỹ. Martin lập luận rằng việc di tản người Mỹ sẽ làm đất
nước ấy hoảng loạn và làm chi sự đầu hàng trở thành không tránh khỏi được, nó sẽ
làm chiến thắng của Cộng Sản nhanh hơn. Điều tệ hại nhất là có thể gây ra hoảng
loạn ở SG, nếu đem so sánh thì ngay sự hoảng loạn ở Đà nẵng cũng chẳng thấm tháp
gì...
Giờ đây, nhiều người Mỹ đang ló mặt khỏi cái tủ SG kín mít. Sứ quán tin rằng có
lẽ khoảng 6.000 người Mỹ sẽ di tản nếu bắt đầu cuộc di tản vào giữa tháng tư.
Nhưng khi cuộc tấn công thần tốc của Bắc Việt Nam đẩy mạnh thì ngày càng có
nhiều công dân Mỹ xuất hiện. Nhiêug người là quân nhân về hưu. Họ chọn SG để
sống vì nhiều lý do khác nhau, thường là do chuyện giá rượu rẻ và số lượng thiếu
nữ quá thừa thãi. Những người khác là người Việt Nam nhập tịch Mỹ. Rồi lại còn
thành phần đào ngũ nữa.
Chẳng ai biết có bao nhiêu người Mỹ bỏ trốn khỏi quân đội ở Nam Việt Nam. Con số
điều tra đi đến ước lượng khoảng 300 bih sĩ. Số này sống tại SG, dùng mánh lới
bỏ vợ bên Mỹ. Nhiều người dính líu đến chuyện buôn ma tuý và là tay buôn lẻ.
Nhiều người khác đã xong được hộ chiếu và sống đàng hoàng. Giữa 15 và 28-4, 277
người đến trình diện tại các địa điẻm nhận di tản và cho biết họ là công dân Mỹ.
Chẳng ai có giấy tờ trong mình, đều là người Âu da trắng, da đen, nói tiếng Anh
giọng Mỹ.
Mệnh lệnh công khia của Ford là đem hết người Mỹ "không cần thiết" ra khỏi SG.
Chẳng ai giải thích tại sao viên chức Mỹ "không cần thiết" lại có mặt ngay từ
đầu làm gì và nhiều đến thế. Nó được ban hành không phải chỉ vì sự động tâm muốn
cứu vớt sinh mạng mà vì đừng trông mong quốc hội bỏ phiếu viện trợ cho SG trừ
phi hầu hết người Mỹ trong vùng chiến trận được mang đi nhanh chóng. Martin
chẳng thích chuyện này, nhưng không ngăn cản được. Một viên chức cao cấp trong
giới chức Mỹ ở Việt Nam sẽ làm việc để thực hiện kế hoạch.
Hai ngày sau khi Phan Rang sụp đổ, Martin vẫn chưa lấy lại được sức khỏe, vẫn
còn bị hoành hành bởi bệnh sưng phổi đã mắc phải ở Hoa Kỳ. Trong điều kiện bình
thường thì đại sứ đã phải nằm bệnh viện hoặc ít ra cũng nằm trên giường tại nhà.
Nhưng bây giờ con bài đã ném ra, những quyết định quan trọng xẩy ra hàng ngày,
gần như hàng giờ nên Martin khăng khăng đòi có mặt ở chỗ làm việc. Martin muốn
nắm chặt sứ quán, đích thân làm ra mọi quyết định thường thường là bí mật.
Viên đại sứ miễn cưỡng thi hành lá thư của tổng thống Ford trong việc đẩy mạnh
cuộc di tản người Mỹ ở Nam Việt Nam. Giống như một thuyền trưởng, ông ta ra lệnh
cho đàn bà trẻ con đi trước rồi mới chấp thuận giảm bớt nhân viên sứ quán. Về
quan hệ của Mỹ với Nam Việt Nam, Martin vẫn tin Thiệu là một tay tổng thống được
dân bầu mặc dầu không phải là được dân ưa thích. Câu trả lời của Martin là dù
thích hay không, Thiệu vẫn là tổng thống, tháng 10-1975 sẽ hết hạn, khi ấy cử
tri có thể đuổi Thiệu khỏi vị trí. Martin quả là có nói chuyện với tay tổng
thống này vài ba lần. Trong tuần lễ cuối cùng nắm giữ chức vụ, Thiệu ít kiếm
được đồng bào nào của mình để dựa. Viên chức, chính trị gia, tướng lĩnh đều đòi
uống máu Thiệu. Chỉ Martin là chỗ dựa và lời đe doạ của Martin sẽ cắt toàn bộ
viện trợ của Mỹ mới làm các tướng lĩnh SG chùn tay làm đảo chính Thiệu.
Martin gặp Thiệu vào thời điểm Nghi bỏ Phan Rang vĩnh viễn để tim cách bơm hơi
cho tay tổng thống trong khi chính thể xác ông ta chẳng khoẻ gì. Viên đại sứ đã
nói Hoa Kỳ đặt trọn niềm tin ở Thiệu vì Thiệu là tổng thống dân cử của Nam Việt
Nam. Martin khuyến khich Thiệu đừng từ chức. Martin nói trong hiện tại, Thiệu
nên giữ cho vững. Mỹ vẫn cam kết với chính quyền Thiệu về sự tồn tại của "VNCH".
Viện trợ Mỹ sẽ đến SG.
Thiệu lại nghĩ khác. Sứ quán Nam Việt Nam ở Mỹ cho Thiệu biết là khó có thêm
viện trợ. Trong cuộc nói chuyện với Martin Thiệu đòi máy bay Mỹ nhảy vào cuộc
chiến. Thiêụ nói với viên đại sứ rằng không có sự giúp đỡ của Mỹ thì Thiệu sẽ từ
chức, "guốc bai ông Mỹ"
*
Cuộc tấn công thăm dò đầu tiên trong trận đánh cuối cùng và SG xảy đến ngày
18-4. Một toán đặc côngCộng Sản đã tấn công cứ điểm truyền tin Phú Lâm. Trên một
khía cạnh Cộng Sản đã mang chiến tranh gần đến SG. Khía cạnh khác là các nhà
quân sự đều cho rằng đó là cuộc tăm dò phòng thủ, thử phản ứng và di chuyển của
quân đội SG.
Trực thăng vũ trang ở Tân Sơn Nhất đã phản ứng nhưng SG sẽ gặp khó khăn nếu trận
đánh lớn xảy đến. Quân đội SG chỉ còn 1 lữ đoàn dù, đôi ba tiểu đoàn quân biệt
động ở nội thành. Không quân chẳng còn mấy nữa. Các bộ tham mưu cố tái lập một
số đơn vị nhưng chẳng tiến triển gì mấy. Các đơn vị khác còn ở tư thế nào đó để
phòng thủ SG là:
- Sư đoàn 5, đóng ngay phía Bắc SG, bị xem là tác chiến không hữu hiệu, do nạn
tham nhũng là suy yếu đơn vị không sửa chữa nổi.
- Sư đoàn 25 còn tệ hơn cả sư đoàn 5 đóng ở Bắc SG.
- Sư đoàn 9 khá hơn, nằm cách SG 25 dặm về phía Nam. Bộ Tổng tham mưu phá các
tiền lệ ranh giới bất khả xâm phạm giữa các quân khu định cho sư đoàn 9 vượt lên
quân khu 3. Một khu vực rộng lớn ở phần phía Bắc ĐBSCL bị bỏ ngỏ cho Cộng Sản.
Các đơn vị Việt Cộng đi vào các làng mạc và nắm quyền kiểm soát mà không gặp sự
chống đối nào. Cái thòng lọng đặt lên cổ SG đang xiết chặt dần, chẳng còn chỗ
nào để Thiệu xoay xở gì nữa.
Martin trong khi bất tuân lệnh đẩy mạnh cuộc di tản thì lại xoay trần ra làm cái
mà ông ta coi đấy là nhiệm vụ chính của mình. Đó là việc ngăn chặn sự hoảng loạn
rõ ràng là đang lớn lên trong những mảng lớn dân chúng Việt Nam. Quân đội SG đã
tháo chạy ở tất cả mọi nơi mà nó gặp phải thử thách, ngoại trừ Xuân Lộc nhưng
cũng đang bị sưc ép nặng nề. Ít nhấy cũng là 100.000 bộ đội Cộng Sản, 10 sư đoàn
bộ binh và lực lượng yểm trợ đang ở trong khoảng cách SG một hai ngày đường. SG
được phòng thủ bởi các đơn vị bộ binh tồi mà hầu hết những người am hiểu đều tin
rằng chúng sẽ co rut nhanh chóng sau phut đầu chạm súng.
Thiệu sẽ không từ chức, tay tổng thống này nói thế nhưng trên thực tế thì Thiệu
đang suy yếu. Thiệu nói rằng sẽ không co thương lượng. Martin muốn Thiệu ở lại
để tìm cách mặc cả. Cộng Sản đòi Thiệu cút đi và nói thẳng rằng nếu còn Thiệu
thì sẽ tàn phá SG. Mỹ thì lo việc di tản. Phe Việt Nam thân Mỹ thì hoảng loạn,
chẳng còn làm ăn được gì. Mọi người Việt Nam đều có khả năng gây thương tích cho
Thiệu và chán Mỹ, muốn gút-bai người Mỹ. Sự căm ghét của họ đối với Thiệu quá
sâu đậm rồi.
Nói cách khác, chiến tranh Việt Nam sắp đến hồi kết thúc.
Chương 11: "Người Mỹ các ông..."
Ba năm rưỡi qua, kể từ 20-12-1971, SG là hòn đảo kỳ quặc trong chiến tranh,
không bị bom đạn đụng đến. Nó có và cách chiến trận 1.000 dặm nên không phải là
chiến trường. Nhưng nó đang là chiến trường bởi vì SG là trung tâm của vùng
chiến trận.
Khi Hà Nội bị B.52 tập kích thì SG chan hoà ánh nắng. Khi lính chết la liệt ở
các tỉnh quanh nó thì SG bình yên. Đến tháng 4-1975, nó căng thẳng hơn đôi chut
. Thế là biết cuộc chiến sắp kết thúc. Cộng Sản sắp sửa nhẩy lên chỗ ngồi của
người cầm lái để làm chủ chiếc xe. Chiến tranh đang đến gần với SG, Tiếng nổ kho
đạn ở Biên Hoà có thể nghe thấy được,
Cản trở duy nhât cho sự dàn xếp hoà bình trước khi khói lửa chiến tranh bốc lên
ở SG được xem là Thiệu. Tiếng rít lên đòi thủ cấp chính trị của Thiệu vang động
ngày chủ nhật tương đối yên tĩnh này. Ở mọi nơi "trừ văn phòng lầu ba ở toà đại
sứ Hoa Kỳ" (văn phòng Martin), người ta đều chấp nhận là Thiệu phải đi thôi.
Thiệu hết thời rồi. Tay tổng thống này còn ngồi đấy thì chiến tranh sẽ đến với
SG.
Suốt ngày 20-4, Thiệu ngồi ở hầm trú bom dưới dinh Độc lập. Xế trưa thứ bẩy, một
chiếc trực thăng đáp xuống sân cỏ của dinh. Từ trực thăng bước ra là tướng 4 sao
Cao Văn Viên và tướng 3 sao Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh vùng 3 bao quanh SG. Gặp
được Thiệu, Toàn đi ngay và trọng tâm: "Thưa tổng thống, cuộc chiến coi như
xong" Toàn nói vậy.
Toàn nắm cuộc họp ấy, Toàn muốn Viên đi theo chỉ vì tay tổng thống này tin VIên
hơn và Toàn muốn Viên làm một nhân chứng, Toàn bảo Thiệu là Phan Rang tiêu tan
rồi, điều mà 3 ngày qua được giữ kín với Thiệu. Vĩnh Nghi đã bị bắt, Căn cứ
không quân rơi vào tay Cộng Sản. Phan Thiết sụp đổ nhanh chóng. Chắc chắn Cộng
Sản sẽ quay sang quốc lộ 1 để tràn xuống, không cần theo đường bờ biển đi vào
SG.
Toàn nói cả chuyện gì đã xảy đến cho mồ mả gia đình Thiệu ở Ninh Chữ. Tay tổng
thống này, tay chân vốn đã run rẩy, mặt mày trở nên trắng bệchkhi nghe Toàn nói
điều đó. Toàn định ém chuyện này đi nhưng quá nhiều người đã biết chuyện. Nghi
cũng đã đánh điện tín về Biên Hoà trước khi rời Phan Rang. Chuyện ủi sập mồ mả
tổ tiên Thiệu là đầu đề trò chuyện ở sở chỉ huy của Toàn. Toàn nghĩ tôt hơn hết
là nên nói thẳng tin này cho Thiệu biết hơn là để y nghe thiên hạ xầm xì.
Cả Viên và Toàn đều ngạc nhiên khi không thấy Thiệu nổi giận lôi đình. Viên nghĩ
cách để nói rằng chuyện xảy ra là hậu quả hành động của Thiệu. Nhưng Thiệu đã
quay đi bước vào phòng nghỉ, không buồn bảo Toàn và Viên về nghỉ. Hai viên tướng
tự động bước ra ngoài. Đấy là chuyện của ngày thứ bẩy. Giờ đây là chủ nhật.
Thiêụ đang ngồi im như tượng. Thiệu cũng không nói gì trong 24h qua ngoài câu
dặn dò khôngtiếp ai cả. Nửa ngày thứ bẩy, cả ngày chủ nhật và sáng thứ hai Thiệu
rút vào cô độc, không ăn uống gì mặc dầu tronghầm chứa nhiều thức ăn... Phòng
báo chí vẫn loan baotóng thống sẽ dự lễ kỉ niệm Hùng Vương vào chiều thứ hai.
400 nhà báo nước ngoài vẫn chờ sẵn để quan sát tổng thống vào thời điểm khủng
khoảng.
Cùng lúc ấy Lê Minh Đảo, chỉ huy sư đoàn 18 ở Xuân Lộc biết rằng thành phố kể
như tiêu rồi. Đêm chủ nhật, sáng thứ hai, Cộng Sản đã chuyển quân vào để dứt
điểm. Lữ đoàn dù SG đã sa lầy trong rừng cao su, trung đoàn dự bị của sư đoàn
không hy vọng chọc thủng vòng vây nữa. Suốt đem, tỉnh lỵ bị pháo kích. Hoả lực
tấn công của Cộng Sản còn hơn bất kỳ đơn vị bộ binh Mỹ mà Đảo đã biết. Tiền đồn
xung quanh Xuân Lộc lần lượt sụp đổ.
Sau rạng đông, Đảo nói chuyện bằng điện đài với sở chỉ huy Biên Hoà. Biết là
Toàn không có mặt tại đó, nhưng đã dặn lại truyền lệnh giữ Xuân Lộc càng lâu
càng tôt. Không còn kiểu ra lệnh của Thiệu là giữ bằng mọi giá. Đến nửa buổi
sáng thí sư đoàn 18 rõ ràng là tuyệt vọng. Xuân Lộc, biểu tượng tử thủ của quân
đội SG sắp sụp đổ. Đảo ra lệnh rut bỏ vị trí và chạy.
Thiệu cũng bước ra khỏi hầm, tâm trạng âu sầu. Tay tổng thống quyết định rồi,
sang phòng họp phía tây, lấy giấy but soạn thảo diễn văn. Thiệu muốn họp với tả
hữu tin cậy không còn nửa tá và ra lệnh gọi Martin sau 1h nũa có mặt ở dinh tổng
thống.
Các nhân viên quanh Thiệu nhanh chóng loan truyền tin Thiệu sắp từ chức. Một nhà
báo Mỹ bèn gọi một cú điện đến hỏi Martin. Thế nhưng viên đại sứ lại hiểu tay
tổng thống hoàn toàn trai ngược. Theo lời Martin, Thiệu có ý định ở lại chức vụ
và đang chống cự với mọi nỗ lực tìm cách phế truất y. Qua truyền hình, Thiệu có
ý định đòi hỏi bỏ phiếu tín nhiệm và Martin tiên đoán là Thiệu sẽ thắng.
Bài diễn văn của Thiệu nói trước đám viên chức là những lời lẽ quyết liệt. Nó
được đưa lên truyền hình lúc 8h tối. Tay tổng thống noi "tình hình thật khẩn
cấp", gần như phải rut lui đến dinh Độc Lập. Nếu người Mỹ chỉ cần can thiệp vào
như họ đã hứa thì Nam Việt Nam đâu đến nỗi nào đang phai đương đầu với nguy cơ
sắp mất thủ đô. Thiệu cả gan nói láo rằng cái gì đã xảy ra ở vùng cao nguyên là
do quyết định của viên chỉ huy quân khu 2. Lệnh rut lui của cấp chỉ huy quân khu
2 tất yếu dẫn tới việc quân khu 1.
Khi Mỹ rut khỏi Nam Việt Nam năm 1973, quân đội SG mất 63% sức mạnh quân sự. Tay
tổng thống ngừng nói, cắn môi rõ ràng là để cầm nước mắt. Thiệu nói: "Người Mỹ
các ông... không chịu cho chúng tôi viện trợ mà các ông hứa hẹn. Tức là không
ủng hộ chúng tôi nữa. Thế thì được rồi, tôi sẽ ra đi. Nếu người Mỹ không giúp đỡ
Nam Việt Nam nữa hãy để họ ra đi, cút đi, hãy để họ nuốt hết những lời hứa của
họ". Thiệu thay đổi giọng điệu nhanh chóng và tuyên bố từ chức.
Dân chúng thở phào nhẹ nhõm trước sự từ chức của Thiệu. Con người bị khinh
miệt nhất trong đất nước đã bước xuống, chấm dứt nhu cầu đảo chính, nhưng khả
năng thương lượng vẫn mong manh. Chẳng có cách gì để lấy lại đất đã mất. Ít ai
cảm thấy quân đội Sài Gòn có thể bảo vệ nổi phần còn lại của Nam Việt Nam. Vậy
mà định thương lượng tức là sẵn sàng quỳ xuống để đối phương nhổ nước bọt vào
mặt.
Bộ đội Bắc Việt Nam tiếp tục đổ xuống theo các quốc lộ hướng về Sài Gòn, sư đoàn
nối tiếp sư đoàn, đặc biệt ở phía Bắc và Tây Bắc xuống. Trong phần lớn đoạn
đường, họ ngồi trên xe tải và xe tăng. Một chố giao lưu quan trọng là Đồng Xoài,
cách Sài Gòn 35 dặm về phía Bắc. Tại đây, điểm giao nhau giữa các cánh quân xuất
phát từ đường mòn Hồ Chí Minh, từ vùng biên giới Campuchia, từ vùng Đông Bắc,
nơi các sư đoàn chiến thắng ở cao nguyên, Đà Nẵng và Nha Trang đổ về Sài Gòn. Xe
vận tải nối tiếp nhau đi ngang qua Đồng Xoài, nơi trước đây có một trại lính mũ
nồi xanh của Mỹ, đã bị tràn ngập. Các loại xe chuyên môn cũng đã quá nhiều,
không thể đếm được. Chúng chở cầu, kéo pháo, chở xăng cho xe tăng và các loại xe
khác
Một công-voa kéo dài 3 ngày xuất phát từ các dãy núi. Nó được gọi là Trường Sơn,
đặt theo tên vùng cao nguyên mà nó đi ngang qua. Công-voa hầu hết là xe vận tải
mới của Bắc Việt Nam mà theo như những người lái chúng cho biết là mang đủ đạn
cho trận đánh một tháng.
Cuộc vây hãm Sài Gòn đang được dựng lên. Từ Đồng Xoài, hàng trăm xe tải thẳng
hướng Tây, tiến về Tây Ninh, Bình Dương. Những chiếc khác đi thẳng hướng Đông
theo quốc lộ 1đến Biên Hoà. Hàng trăm chiếc khác xuôi những con đường ít ai biết
đến để ra Vũng Tàu và bờ biển. Vòng vây đặt quanh Sài Gòn không phải là một vòng
tròn nhưng toàn vẹn và chặt chẽ. Thậm chí cả về phía Nam, nơi còn một chút kiểm
soát của quân đội Sài Gòn, Cộng Sản vẫn đang đi vào vị trí để vây bọc và cắt đứt
liên hệ giữa vùng châu thổ với Sài Gòn. Máy bay của không quân phần lớn chẳng có
thể tìm ra các công-voa. Giả dụ dân chúng tìm ra thì cũng chẳng đủ máy bay, rồi
dù có máy bay cũng chẳng có phi công nào liều chết bay đi khi đã nhan nhản tin
đồn về loại tên lửa phòng không vác vai tuyệt diệu SA.7 xuất hiện trong đội hình
các đoàn quân ấy.
Trong tầm pháo của Sài Gòn, bộ đội công binh Cộng Sản đặt một chiếc cầu trong
vòng không đầy một ngày. Với nó, hàng tá xe tăng, đại bác hạng nặng và mấy chục
xe vận tải vượt sông Đồng Nai để tấn công Sài Gòn từ hướng Tây. Khoảng chừng
hơn10 sư đoàn đã bao quanh Sài Gòn và nằm im chờ lệnh tấn công. Nửa tá các sư
đoàn khác đang đứng sau lưng họ, sẵn sàng bổ xung cho tuyến xung phong. Về phía
Bắc và Đông Bắc, Cộng Sản ở trong vòng 20 dặm đối với thủ đô. Về phía Đông, họ
cách chừng 30 dặm. về phía Tây và Tây Nam, sau khi Thiệu từ chức, Cộng Sản đang
thay đổi đội hình nhưng cũng chỉ cách Sài Gòn vào khoảng 30-35 dặm.
Đến ngày 26-4, Sài Gòn là mục tiêu nằm trong tình thế đợi phía bên kia bấm nút.
“Người Mỹ các ông” lừng khừng không di tản sao được nữa.