Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2008

55 năm nhìn lại vụ án Trần Dụ Châu

Vụ án Trần Dụ Châu là vụ án tham nhũng nổi tiếng những năm 50 của thế kỷ trước. Vụ này đã được nhà báo Hồng Hà viết trong loạt bài phóng sự điều tra đăng 6 kỳ liền, từ ngày 20/9/1950, trên báo Cứu Quốc, cơ quan tuyên truyền, cổ động, tranh đấu của Trung ương Mặt trận Liên Việt và Tổng bộ Việt Minh, xuất bản hàng ngày. Đây là một bài học về kiên quyết chống tham nhũng trong bất cứ thời kỳ nào.

Từ một viên thư ký toà sứ Pháp

Mùa hè năm 1950, từ mặt trận đồng bằng sông Hồng, tôi trở về toà soạn báo Cứu Quốc. Cơ quan báo vừa dọn về xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Cuộc di chuyển mới này báo hiệu ta hoặc địch sắp có hoạt động quân sự lớn. Anh Xuân Thủy, Chủ nhiệm báo Cứu Quốc, giao ngay cho tôi đi lấy tài liệu viết về một vụ tham ô lớn. Đấy là vụ án Trần Dụ Châu, Đại tá, nguyên Giám đốc Nha Quân Nhu, đang ở giai đoạn điều tra, lấy lời khai.

Lúc này, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra nghị quyết chấn chỉnh tổ chức, kiện toàn bộ máy các cơ quan Bộ Quốc phòng – Tổng Tư lệnh. Sau đó, ngày 11/ 7/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh lập ba cơ quan : Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp. Các Nha trước đây đảm nhiệm việc sản xuất quân trang, quân dụng nay sáp nhập vào các Cục. Nha Quân Nhu sáp nhập vào Cục Quân Nhu trực thuộc Tổng cục Cung cấp, do đồng chí Trần Đăng Ninh, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, làm Chủ nhiệm Tổng cục.

Trần Dụ Châu ngồi khai trước các cơ quan pháp luật. Sinh năm 1906 tại một tỉnh miền Trung, Châu bước vào đời bằng đi làm thư ký toà sứ Pháp. Thấy Châu vừa đi làm, vừa viết báo “Thanh – Nghệ – Tĩnh”, e lộ chuyện công sở, toà sứ cho Châu thôi việc. Châu chuyển sang làm nhân viên quận Hoả xa Bắc Trung Kỳ.

Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương tháng 3/1945, Châu được cử làm Trưởng phòng Kế toán Hoả xa Bắc Trung Kỳ. Nhờ quen biết người Nhật Bản, Châu lấy được một kho vải ở huyện Đức Phong, bán đi có tiền tậu một biệt thự ở Đà Lạt.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bùng nổ, Châu hiến cho Nhà nước một phần tài sản của mình, rồi hoạt động trong Uỷ ban Công sở Nha Hoả xa Việt Nam và Hội Công nhân Cứu quốc Hoả xa. Ngày toàn quốc kháng chiến, Châu ra Bắc, được giao việc chạy một kho hàng lớn hơn ngàn tấn gạo, muối ở Vân Đình, Hà Đông, đưa lên Việt Bắc cho bộ đội.

Là người tháo vát, năng động, có đầu óc kinh doanh, Châu được vào làm ở Cục Quân Nhu. Sau một thời gian làm tốt việc cung cấp lương thực, trang bị cho bộ đội, Châu được phong tặng quân hàm Đại tá, làm giám đốc Nha Quân Nhu. Lúc đó, Cục Quân Nhu chỉ phụ trách việc quản lý, quản trị, còn Nha Quân Nhu mới có nhiệm vụ trực tiếp sản xuất quân trang, quân dụng. Có địa vị cao, quyền hành rộng, nắm trong tay hàng trăm triệu đồng, cơ chế kiểm tra, kiểm soát lại lỏng lẻo, không biết tự kiềm chế, Châu đi dần vào con đường sa ngã.

Châu lấy cắp của công quỹ một số tiền lớn : 57.959 đồng Việt Nam, 149 đôla Mỹ, các tài sản khác trị giá 143.900 đồng Việt Nam. Giá gạo ở Thái Nguyên – Bắc Cạn năm 1950 là 50 đồng/một kg, còn chiến sĩ ta mỗi ngày chỉ được cấp vài lạng gạo và hơn 10 đồng tiền thức ăn. Ngoài ra, Châu còn nhận hối lộ khá nhiều tiền, chuyên quyền, độc đoán, sống sa đoạ, đồi truỵ. Uỷ ban Tiếp liệu Thu - Đông 49, các kho số 1, 4, 10 thường xuyên nộp cho Châu tiền tiêu, rượu, đồ hộp, hải sản khô, thuốc lá, quần áo, chăn len... Tuyển người, thải người theo sở thích cá nhân, vung tiền bao gái; có lần dùng ôtô công đưa gái đi chơi ở Bắc Cạn. Châu dan díu với một nữ nhân viên xinh đẹp, bổ nhiệm làm “bí thư văn phòng” của Nha, làm việc cùng buồng, ăn ở cùng nhà với Châu. Các cán bộ điều tra có trong tay cuốn nhật ký của nữ “bí thư văn phòng” cùng gần 100 kiểu ảnh lãng mạn chụp với Châu. Giữa lúc nữ bí thư đi dự lớp huấn luyện thì Châu đưa từ Phú Thọ về cơ quan một cô gái giới thiệu là em nuôi, suốt ngày ở trong buồng riêng của Châu. Nữ bí thư từ lớp học về bất chợt bắt gặp và đã xảy ra một cuộc đánh ghen ầm ĩ.

Tiếng tăm ăn chơi của Châu nổi như cồn ở Hanh Cù, Phú Thọ, một thị trấn sầm uất, tối đến cả đường phố dài rực sáng ánh đèn măng sông, với nhiều hiệu ăn sang trọng và cửa hàng đầy ắp hàng tiêu dùng nước ngoài. Mỗi lần về công tác ở Liên khu 10, gồm các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang..., Châu đều đưa bạn bè đến chè chén ở đây, nhất là ở nhà hàng Ba Đình. Cũng tại thị trấn này, Châu tổ chức đám cưới cho Bùi Minh Trân, Trưởng ban Mậu dịch của Quân giới liên khu Việt Bắc, tiêu tốn hàng vạn đồng. Báo Cứu Quốc đã có bài phê bình kịch liệt đám cưới này mà nhân dân Phú Thọ thì nói rằng “đã làm váng đục cả một khúc sông Thao”. Chính từ thị trấn Hanh Cù, đã bắt đầu có những bức thư tố cáo Trần Dụ Châu gửi đến các cơ quan có liên quan.

Thầy nào trò nấy

Tay chân đắc lực nhất của Châu là Lê Sỹ Cửu, sinh tại một tỉnh miền Trung, kém Châu 10 tuổi. Cửu mồ côi cha mẹ từ năm 8 tuổi. Năm 12 tuổi, hắn ra Móng Cái, đi làm cho một nhà buôn Hoa Kiều; lớn lên tham gia buôn thuốc phiện lậu trên đường Móng Cái – Hải Phòng. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Cửu trở về miền Trung, vào làm công an, nhưng được ít lâu thì bị đuổi, liền quay ra Bắc. Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Cửu gặp và được Châu giới thiệu vào làm ở Ban Vận tải quân giới. Một thời gian sau, lại bị đuổi việc, Cửu lần mò lên Cao Bằng kiếm ăn. Tại đây, tháng 8/1947, gặp lại Châu, Cửu được Châu đưa vào Cục Quân Nhu, làm nhân viên tiếp liệu ở Cao Bằng. Vừa xa Nhà, vừa được Châu che chở, Cửu lộng hành làm bậy, lấy cắp tiền công, ăn tiêu bừa bãi, thường xuyên lui tới các nhà hàng, tiệm hút vùng Cao Bằng.

Nghe được nhiều tiếng xấu về Cửu, Châu vội rút Cửu về Nha, lập ra một tổ chức mới gọi là “Ban Thế phẩm Đay” giao cho Cửu làm trưởng ban. Châu tuyên truyền ầm ĩ rằng, Ban này lo các đồ mặc mùa đông cho bộ đội, từ nay các chiến sĩ ta không phải lo đến cái rét ở rừng núi nữa. Nhưng đây chỉ là một mánh khoé tham ô của Châu : lấy ba phần tư số tiền cấp trên phát cho Ban Thế phẩm Đay, Châu giao cho Cửu đi buôn lậu.

Lê Sĩ Cửu khai trước Ban Kiểm tra của Bộ Quốc phòng : Mỗi khi đi mua vải về cho Ban Thế phẩm, Cửu cho tăng giá thêm từ 20 đến 25 đồng mỗi tấm để lấy tiền đút túi. Trong một chuyến mua vải mộc và vải diềm bâu, Cửu lấy được 50 vạn đồng. Khi xuất kho vải giao cho cơ sở nhuộm, Cửu chỉ tính số tấm, không tính số vuông; cho xẻ đôi những tấm vải dài để nhuộm, khi nhận về kho số vải đã nhuộm, dôi ra 1.225 tấm vải, bỏ túi riêng được 66 vạn đồng. Người bán vải giao hàng tận kho, không tính tiền vận chuyển, nhưng Cửu lại tính với Ban phải trả phí vận chuyển. Khi nhà thầu lĩnh hàng thì phải cung cấp đầy đủ khuy cúc, nhưng Cửu tính với Ban tiền khuy cúc riêng. Với hai thủ đoạn trên, Cửu cũng lấy được 4 vạn đồng.

Cửu cho khắc một con dấu giống dấu của Nha quân nhu để cấp cho một số người buôn lậu, mỗi lần được 2 vạn đồng. Cửu giàu lên nhanh chóng, ăn chơi sa đoạ, sắm được một chiếc thuyền đẹp để gia đình du ngoạn và tổ chức những cuộc dạ hội trên sông. Cửu hối lộ đều đặn theo từng vụ cho Châu, tổng cộng khoảng 40 vạn đồng và nhiều tài sản có giá trị.

Trong Nha, cán bộ nhân viên gọi Châu là “Châu Hổ”, sợ Châu như cọp. Một số cán bộ, đảng viên trong Nha không chịu để Châu lôi kéo, đã mạnh dạn phê bình Châu. Có người do nói thẳng đã bị Châu đẩy khỏi cơ quan. Những điều tiếng xấu về Châu ngày càng nhiều. Châu gọi đó là “những câu chuyện hàm hồ, soi mói vì ghen ghét”. Tối ngày 27/5/1950, Châu gọi một nhân viên tay sai đến nhà, cho uống rượu, ăn cơm. Rồi Châu đọc cho nhân viên đó viết một bức thư gửi Đại tướng Tổng Tư Lệnh, báo cáo rằng “trong Nha Quân Nhu có một tổ chức gây chia rẽ và phá hoại quân đội ta”.

Nghe tin Cửu bị bắt, Châu chạy đến Cục Quân pháp để “minh oan”, xin cho Cửu tự do. Châu còn báo cáo với Bộ Quốc phòng: “Tôi xin cam đoan nhân viên Lê Sĩ Cửu không ăn cắp một xu nhỏ”. Bộ bác đơn của Châu.--PageBreak--

Quân pháp nghiêm minh

Lê Sĩ Cửu tiếp tục khai với Ban Kiểm tra:

- Những tội lỗi của tôi kể trên một phần do đại tá Châu xúi dục. Sở dĩ tôi làm như vậy vì tôi yên trí rằng đã có đại tá Châu bênh vực, mọi việc không sợ gì cả!

Đến lượt Trần Dụ Châu cũng thú nhận trước Ban Kiểm tra:

- Tôi quả là người không liêm khiết. Cán bộ kiểm tra hỏi Châu: - Đã lấy của Lê Sĩ Cửu những gì ? Châu trả lời: - Tôi lấy nhiều lắm, không thể nhớ là bao nhiêu. Nhưng lần nào Cửu đến tôi thì cũng có ít nhiều tiền đưa tôi.

Ngày 5/9/1950, tại thị xã Thái Nguyên, Toà án binh tối cao mở phiên toà đặc biệt xử vụ Trần Dụ Châu. Còn lâu mới tới giờ khai mạc mà trong và ngoài toà đã chật ních người. Cửa vào phòng xử án có một bảng khẩu hiệu: “Nêu cao ánh sáng công lý trong quân đội”. Trong phòng xử, trên tường đối diện nhau có hai khẩu hiệu: “Quân pháp vô thân” và “Trừng trị để giáo huấn”. Đúng 8 giờ, đại diện Chính phủ, quân đội và Toà án binh tối cao tới, đi giữa hàng rào bộ đội bồng súng.

Thiếu tướng Chu Văn Tấn ngồi ghế chánh án giữa hai ông hội thẩm viên Phạm Học Hải, giám đốc Tư pháp Liên Khu Việt Bắc và Trần Tấn, Phó cục trưởng Cục Quân Nhu. Thiếu tướng Trần Tử Bình, đại diện Chính phủ, ngồi ghế Công cáo uỷ viên. Tới dự phiên toà còn có các ông: Nguyễn Khang, nguyên Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc; Võ Dương, Liên Khu Hội trưởng Liên Việt Liên khu Việt Bắc; Đỗ Xuân Dung, giám đốc Công chính Liên khu Việt Bắc; bác sĩ Vũ Văn Cẩn, đại biểu quân đội, đại diện các đoàn thể nhân dân và các nhà báo.

Tiếng gọi các bị cáo vang trong phòng họp. Bị cáo Lê Sĩ Cửu vắng mặt vì ốm nặng. Thiếu tướng chánh án hỏi các bị cáo. Trần Dụ Châu bước ra trước vành móng ngựa, nói nhiều về những công lao và thành tích cách mạng của mình, cho rằng do nhân viên làm bậy là chính mà mình không kiểm soát được.

Thiếu tướng Công cáo uỷ viên, đại diện Chính phủ, đứng lên đọc bản cáo trạng:

“Thưa toà, thưa các vị,

Trong tình thế ta gấp rút chuẩn bị Tổng phản công, mọi người đang nai lưng buộc bụng tích cực phục vụ kháng chiến trước tiền tuyến, quân đội ta đang hy sinh để đánh trận căn bản mở màn cho chiến dịch mới, thì tôi thiết tưởng mà cũng là lời yêu cầu Toà dùng những luật hình sẵn có để xử Trần Dụ Châu và theo chỉ thị căn bản của vị Cha già dân tộc là cán bộ phải cần kiêm liêm chính. Việc phạm pháp của Trần Dụ Châu xảy ra trong không gian là Việt Bắc, nơi thai nghén nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã làm vẩn đục thủ đô kháng chiến...

... Để đền nợ cho quân đội; để làm gương cho cán bộ và nhân dân; để cảnh tỉnh những kẻ đang miệt mài nghĩ những phương kế xoay tiền của Chính phủ; để xử tử vắng mặt những lũ bầy ra mưu nọ kế kia, lừa trên bịp dưới; để trừ hết loài mọt quỹ, tham ô dâm đãng; để làm bài học cho những ai đang trục lợi kháng chiến, đang cậy quyền, cậy thế để loè bịp nhân dân;

Bản án mà toà sắp tuyên bố đây phải là một bài học đạo đức cách mạng cho mọi người; nó sẽ làm cho lòng công phẫn của nhân dân được thoả mãn, làm cho nhân dân thêm tin tưởng, nỗ lực, hy sinh cho cuộc toàn thắng của nước nhà.

Vì vậy, tôi yêu cầu toà xử phạt:

1- Trần Dụ Châu: tử hình 2- Tịch thu ba phần tư tài sản 3- Tịch thu những tang vật hối lộ trái phép 4- Phạt tiền gấp đôi những tang vật hối lộ và biển thủ”.

Trần Dụ Châu tái mặt, cất giọng yếu ớt xin toà tha thứ. Thiếu tướng chánh án tuyên bố toà nghỉ để họp kín.

15 phút sau, toà trở ra tiếp tục họp. Thiếu tướng Trần Tử Bình đọc công lệnh của Đại tướng Tổng tư lệnh tước quân hàm đại tá của Trần Dụ Châu.

Thiếu tướng chánh án đứng lên tuyên án:

- Trần Dụ Châu can tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến: tử hình; tịch thu ba phần tư tài sản.

- Lê Sĩ Cửu can tội biển thủ công quỹ, thông đồng với bọn buôn lậu, giả mạo giấy tờ; tử hình vắng mặt.

Hai chiến sĩ công an dẫn Châu rời nơi xử án trở về nhà giam. 6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu được đưa ra trường bắn trước sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số cơ quan khác. Một cán bộ đọc to bức công điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh bác đơn xin giảm tội của Châu...

11 ngày sau, hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ quân nhu tận tuỵ và anh dũng của chúng ta đã kịp thời đưa ra mặt trận hàng nghìn tấn lương thực, thực phẩm, quân trang… phục vụ tốt trận đánh tiêu diệt địch ở Đông Khê, mở đầu chiến dịch quy mô lớn và dài ngày giải phóng biên giới

Nhân vụ án Trần Dụ Châu

(Xã luận báo Cứu quốc ngày 27/9/1950)

Trần Dụ Châu, nguyên Giám đốc Nha Quân nhu can tội ăn cắp công quỹ làm nhiều điều bỉ ổi đã bị đưa ra trước Tòa án binh tối cao. Ngay ngày hôm sau, tên phản bội quyền lợi nhân dân ấy đã bị bắn để đền tội của y.

Trong tình thế kháng chiến và trong giai đoạn quyết liệt hiện nay, vụ án Trần Dụ Châu có một ý nghĩa lớn lao. Nó làm toàn thể nhân dân bằng lòng và thêm tin tưởng ở chính quyền và đoàn thể nhân dân. Nhân dân đã thấy rõ: Chính quyền và đoàn thể không bao giờ dung túng một cán bộ nào làm bậy, dù cán bộ cao cấp đến đâu đi nữa. Vụ án này còn làm vui lòng tất cả những cán bộ Quân nhu ngay thẳng, chí công vô tư, đã không để Trần Dụ Châu lôi cuốn.

Nó đã cho chính quyền và đoàn thể ta nhiều kinh nghiệm trong việc dùng cán bộ, giáo dục và kiểm soát cán bộ.

Có người e ngại: Chúng ta mở toang vụ án này, công khai vạch rõ nhưng tội lỗi nhơ bẩn của Trần Dụ Châu và bè lũ có thể làm một số dân chúng chê trách, hay kẻ địch bám vào đấy để nói xấu chính quyền, đoàn thể ta. Không! Chúng ta không sợ phê bình và tự phê bình những khuyết điểm của ta. Chúng ta khác bọn phản động và hơn hẳn chúng ở chỗ đó. Đấy là một sự khuyến khích nhân dân thẳng thắn, phê bình những sai lầm của cán bộ, của Chính quyền, đoàn thể vì họ đã hiểu chính quyền, đoàn thể ta là chính quyền, đoàn thể của họ và họ nhất định không tha thứ những kẻ nào đi ngược quyền lợi của họ.

Cái chết nhục nhã của Trần Dụ Châu còn là một lời cảnh cáo những kẻ lén lút đang tính chuyện đục khoét công quỹ của Chính phủ, trục lợi của nhân dân. Tất cả những bọn ấy hãy coi chừng dư luận sắc bén của quần chúng và luật pháp nghiêm khắc của Nhà nước nhân dân!

Chúng ta phải thẳng tay vạch mặt và trừng trị những bọn ấy, những kẻ tham ô, hoang phí, những kẻ mưu sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt người khác, để tiến tới xây dựng một nền tảng chính quyền nhân dân thật vững vàng.

Đây không phải là việc riêng của Chính phủ, của đoàn thể mà đấy là bổn phận của tầng lớp đông đảo quần chúng nhân dân chúng ta”

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2008

Ông thượng tá "mê" kể chuyện Bác Hồ

(VH)- Từ làm ban giám khảo cuộc thi nội bộ Vùng, rồi lại cùng hai thí sinh của mình đi thi kể chuyện tấm gương đạo đức HCM ở cấp toàn quân chủng, đó là thượng tá Nguyễn Quốc Văn- Phó chủ nhiệm chính trị Vùng A Hải Quân.

Từ Ban giám khảo trở thành thí sinh

Chuyến đi dài ngày thăm các đảo phía Đông Bắc tổ quốc của đoàn cán bộ, quân dân Vùng A Hải quân lúc nào cũng vui vẻ, rôm rả nhờ những chuyện hài hước. Người kể chuyện ngụ ngôn, người kể chuyện cười dân gian..., cả đoàn hôm nào cũng được “thưởng thức” những tiếng cười làm quên đi nỗi lo say sóng. Người thường khơi mào cho những cuộc kể chuyện là thượng tá Nguyễn Quốc Văn. Mãi về cuối chuyến đi, hỏi ra chúng tôi mới biết ông là một trong ba đại diện của Vùng A Hải quân đi thi “Báo cáo viên giỏi và kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” toàn quân chủng năm 2007.

Ngay sau khi nhận Chỉ thị của Thường vụ ĐUQS TW, từ cuối tháng 1 năm 2007 Vùng A Hải Quân đã triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chức Minh” trong toàn vùng. Tại các cuộc thi ở các đơn vị Vùng, thượng tá Nguyễn Quốc Văn không ít lần được mời làm Ban giám khảo. Anh Văn tâm sự: “Những câu chuyện về Bác Hồ mình đã biết ít nhiều. Nhưng qua những lần nghe các chiến sĩ, quân dân Hải Quân kể lại mình vẫn thấy xúc động. Sau những lần như thế, những câu chuyện về Bác cứ ngấm dần trong tôi”.

Khi toàn quân chủng tổ chức thi “Báo cáo viên giỏi và kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thượng tá Nguyễn Quốc Văn được cử đi thi cùng với thượng tá Nguyễn Chánh Hưng - Chủ nhiệm Lữ đoàn 170 và thượng uý Nguyễn Hữu Hạnh – Chính trị viên tàu HQ 209 - Hải đội 137.

Ngại lắm, nhưng đấy là nhiệm vụ cấp trên giao cho nên “vị giám khảo” Nguyễn Quốc Văn vẫn “lều chõng” lên đường đi thi. Nên nhớ, đây là 3 thí sinh được lựa chọn từ hội thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với 45 lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia trên toàn Vùng. Anh Văn lại là “thí sinh đặc biệt”, chỉ làm Ban giám khảo chứ chưa từng kinh qua ứng thi ở cấp cơ sở. Chẳng ngờ, những câu chuyện đầy chiêm nghiệm và cảm động của ông thượng tá mê kể chuyện Bác Hồ được Ban giám khảo ghi nhận với giải Ba toàn quân chủng.

Hai câu chuyện nhớ mãi về Bác Hồ

Đến bây giờ, thượng tá Nguyễn Quốc Văn vẫn nhớ như in hai câu chuyện mình kể về Bác Hồ. Anh Văn trầm giọng: “Một lần Bác về Phát Diệm – Ninh Bình, lãnh đạo địa phương tổ chức ăn cơm khá chu đáo. Bác dặn anh em cứ việc ăn cơm còn Bác nhờ một anh bộ đội đi mua bánh giò rồi tranh thủ thời gian, Bác ra nói chuyện với quân dân công giáo. Trên đường về Hà Nội, Bác tranh thủ ăn bánh giò trên xe...” Theo anh Văn cho biết, cuộc thi toàn quân chủng có tới 3 bàn thi, mỗi bàn 3 giám khảo.

Không chỉ là kể lại một câu chuyện về Bác Hồ mà quan trọng hơn là mỗi người phải biết diễn thuyết, liên hệ với thực tế cuộc sống ngày hôm nay. Chẳng hạn, trong câu chuyện kể trên, anh Văn rất tâm đắc ý tứ tế nhị nhưng sâu sắc của Bác Hồ, vừa có ý nhắc địa phương phải biết cần kiệm, không nên bày biện, lại vừa tỏ rõ Bác là người rất biết quý thời gian.

Câu chuyện thứ hai anh Văn kể lại nói về bệnh chuộng hình thức tưởng đã muôn năm cũ nhưng vẫn còn nóng hổi trong cuộc sống ngày nay. Chuyện này anh Văn đi thẳng vào vấn đề: “Vừa rồi tôi nghe các chiến sĩ trẻ nói chuyện với nhau, Bác Hồ là lãnh tụ thiên tài, người đời sau khó học được.

Tôi phản đề ngay, phẩm chất của Bác khó nhưng lại dễ vì gần gũi với cuộc sống, cao cả nhưng không xa lạ với từng con người... Chẳng hạn, một lần Bác về thăm HTX Hợp Thành - Nghệ An. Uỷ ban xã bố trí bàn ghế tươm tất ở một nhà gần Uỷ ban để đón Bác. Thế nhưng Bác lại vào thăm những nhà nghèo khổ. Bác nhắc các đồng chí lãnh đạo xã: “Làm cán bộ cách mạng nên chăm lo đời sống nhân dân, không nên chạy theo thành tích, hình thức”.

Nếu không có gì thay đổi, tháng 8.2008 thượng tá Nguyễn Quốc Văn sẽ tiếp tục được ngồi vào ghế Ban giám khảo cuộc thi “Bác Hồ với thanh niên, thanh niên với Bác Hồ” do Đoàn TNCS HCM Vùng A Hải quân tổ chức từ cấp Chi đoàn đến cấp Liên chi đoàn. Anh Văn bảo, lại thêm một lần ngấm dần tấm gương đạo đức của Bác. Nói rồi, ông thượng tá mê kể chuyện Bác Hồ lại đọc như in lời dặn của Bác trong một lần về thăm chiến sĩ, quân dân Hải Quân: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy nó”.

Từ làm ban giám khảo cuộc thi nội bộ Vùng, rồi lại cùng hai thí sinh của mình đi thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở cấp toàn quân chủng, đó là thượng tá Nguyễn Quốc Văn – Phó chủ nhiệm chính trị Vùng A Hải Quân.

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2008

Uy tín của tướng Võ Nguyên Giáp

Đối với người phương Tây, Võ Nguyên Giáp có lẽ là một hiện tượng đặc biệt trong quân sự thế giới. Ông là vị tướng châu Á được các sử gia và nhà bình luận quân sự phương Tây nhắc đến nhiều nhất từ sau Thế chiến II.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Người ta nhắc đến ông không phải vì ông là đồng minh của các lực lượng quân sự phương Tây mà là người đã đánh bại hai thế lực quân sự hùng cường nhất thế giới vào thời điểm ông là người chỉ huy quân sự.

Một vinh hạnh không kém là ông được sự quí trọng của hai vị tướng tài ba của quân đội Pháp và Mỹ, đối thủ của ông. Đó là Raoul Salan, tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương 1951-1953, và William Westmoreland, người chỉ quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam từ 1968 đến 1972.

Nhìn từ sử sách

Không biết đã có bao nhiêu sách báo và tài liệu quân sự viết về Võ Nguyên Giáp, hay chính ông viết ra và được dịch sang các thứ tiếng nước ngoài, phổ biến rộng rãi trong các tiệm sách và thư viện.

Những sách viết về Võ Nguyên Giáp, được xuất bản tại Pháp, phần lớn do những nhà văn, nhà báo không nhiều thì ít có liên quan đến phong trào cộng sản.

Tướng Giáp tỏ ra có một tài năng vĩ đại trong việc nhìn nhận mặt mạnh nhất của kẻ thù để khai thác nó như mặt yếu nhất
Jonn Colvin trong cuốn 'Giap Volcano under Snow'

Những tác giả này đã hết lời ca ngợi Võ Nguyên Giáp và so sánh ông với những thiên tài quân sự nổi tiếng trên thế giới như với Thomas Edward Lawrence, được biết nhiều dưới tên Lawrence d'Arabie, người đã chinh phục cả lục địa phía đông châu Phi, hay với Ernesto Che Guevara, nhà cách mạng cộng sản Trung Mỹ rất được giới trẻ thiên tả châu Âu ngưỡng mộ.

Nhiều người còn ví thiên tài quân sự của Võ Nguyên Giáp với Karl von Clausewitz, nhà chiến lược quân sự người Phổ đầu thế kỷ 19.

Các sử gia và dư luận phương Tây nể trọng tướng Võ Nguyên Giáp vì ông là vị tướng "không tốt nghiệp một trường võ bị nào và không bắt đầu sự nghiệp quân sự bằng một chức vụ sĩ quan" đã đánh bại quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ (1954) và gây khó khăn cho quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam trong suốt thời kỳ 1964-1972, tức thời điểm quân đội Hoa Kỳ có mặt đông đảo nhất tại miền Nam Việt Nam.

Đường tới Điện Biên

Trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất, các sử gia Pháp thường xuyên nhắc nhở đến Võ Nguyên Giáp trong giai đoạn 1946, khi quân Pháp vừa trở lại Việt Nam và đã có những cuộc gặp gỡ với ban tham mưu của Hồ Chí Minh. Tất cả đều lấy làm tiếc cuộc thương lượng với phe Việt Minh, do đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo, khiến đã xảy ra cuộc chiến khốc liệt tại Đông Dương từ 1946 đến 1954. Thật ra lúc đó chính quyền thuộc địa Pháp không đánh giá cao khả năng quân sự của phe Việt Minh thời đó.

Vào thời điểm 1946, lực lượng quân sự của phe Việt Minh do Võ Nguyên Giáp chỉ huy chỉ có khoảng 40 chi đội với trên dưới 50.000 dân quân du kích, thiếu trang bị và huấn luyện. Phải chờ đến 1949, phe Việt Minh mới có được bốn đại đội bộ binh được trang bị súng máy và súng cối. Lực lượng quân sự của Võ Nguyên Giáp chỉ được trang bị dồi dào từ sau 1950, khi phe cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đánh bại phe Quốc Dân Đảng, do Tưởng Giới Thạch cầm đầu, và chiếm Hoa lục.

Chiến thắng Điện Biên ngày 7.05.1954 đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương

Kể từ sau 1949, khi phe Việt Minh bắt đầu gây nhiều thiệt hại cho quân đội viễn chinh Pháp trên Đường số 4 và khu Việt Bắc, tên tuổi Võ Nguyên Giáp mới được nhắc nhở đến nhiều. Những vị tướng tài ba của Pháp như Revers, Navarre với những lực lượng quân sự chuyên nghiệp được trang bị đầy đủ như Lực lượng Viễn chinh, Lê Dương, Nhảy Dù... (Corps Expéditionnaire, Légion Étrangère, Bataillons Étrangers Parachutistes) đã không ngăn chặn được sự bành trướng của những người lính nông dân do Võ Nguyên Giáp cầm đầu.

Sau này giới quân sự Pháp thường nhắc nhở tới những mưu chước dụ dỗ quân đội của Võ Nguyên Giáp vào bẫy để tiêu diệt như tại Đông Khê, Đường số 4, nhưng không được. Ngược lại, chính quân đội Pháp chịu nhiều thiệt hại và đã phải rút lui khỏi các địa điểm chiến lược trên vùng Trung Du.

Trước sự lớn mạnh của phe Việt Minh, giới quân sự Pháp quyết định mở ra một địa bàn chiến lược khác tại khu lòng chảo Điện Biên Phủ để dụ quân Việt Minh vào tròng để tiêu diệt. Ý đồ này đã được các chiến lược gia và tướng lãnh Pháp nghiên cứu tỉ mỉ. Cũng nên biết vào thời điểm này phe Việt Minh đã chiếm gần như toàn bộ khu vực Trung và Nam Lào, nếu ngăn chặn được đường tiếp tế của phe Việt Minh tại Điện Biên Phủ thì Pháp sẽ triệt hạ dễ dàng lực lượng Việt Minh tại Lào. Với nhận định như thế, bộ chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương dồn nỗ lực củng cố địa bàn Điện Biên Phủ.

Tại đây, với hỏa lực sẵn có quân Pháp có thể làm chủ được trên không và tiếp tế bằng đường bộ. Cũng nên biết khu lòng chảo Điện Biên Phủ nằm sát biên giới Lào với nhiều đồi núi thấp, do đó dễ quan sát một vùng rộng lớn chung quanh. Quân đội Pháp đã xây dựng tại đây một hệ thống địa hào chằng chịt và kiên cố có thể cầm cự với quân Việt Minh trong một thời gian dài khi bị bao vây. Nói chung, giới quân sự Pháp rất tin tưởng vào sự phòng thủ chiến lược của Điện Biên Phủ, họ hy vọng có thể tiêu diệt quân Việt Minh dễ dàng khi bị tấn công. Nhưng ước muốn là một chuyện thực hiện được hay không là chuyện khác. Sau này giới quân sự và chiến lược gia Pháp đã viết rất nhiều sách và tài liệu nghiên cứu sự thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ, tên của Võ Nguyên Giáp cũng được nhắc tới như một đối thủ nguy hiểm, cần triệt hạ. Tác giả những bài viết này đều không ngờ khả năng điều động lực lượng dân công của Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ.

Các chiến lược gia Pháp không ngờ phe Việt Minh đã có sáng kiến tháo gỡ từng bộ phận rời của những khẩu đại bác và súng ống hạng nặng và sử dụng một lực lượng dân công hùng hậu để vận chuyển bằng các phương tiện thô sơ như xe thồ (xe đạp), xe bò, gồng gánh các loại vũ khí và đạn dược, ngày đêm băng rừng, băng suối, băng núi để mang lên các đỉnh đồi chung quanh Điện Biên Phủ, lắp ráp và tấn công quân Pháp. Điều này vượt ngoài tưởng tượng của những chiến lược gia quân sự Pháp, và họ đã tốn rất nhiều giấy mực để diễn tả sự kinh ngạc này, với tất cả sự thán phục.

Cuộc bao vây đã chỉ kéo dài trong ba tháng, từ 13-3 đến 7-5-1954. Quân đội Pháp cùng với bộ chỉ huy tiền phương tại Điện Biên Phủ, do đại tá de Castries cầm đầu, đã đầu hàng vô điều kiện. Võ Nguyên Giáp đã được dư luận Pháp nhìn nhận như người đã đánh bại quân đội Pháp tại Đông Dương.

Không trách Việt Minh

Điều không ngờ là người Pháp chấp nhận sự thất trận này một cách vui vẻ, họ không thù oán gì quân đội Việt Minh mà chỉ trách móc các cấp lãnh đạo chính trị và quân sự của họ đã không sáng suốt. Riêng các tướng Salan, de Castries và rất nhiều tướng tá khác đều hết lời ca ngợi và kính phục Võ Nguyên Giáp. Đây là một trường hợp hi hữu trong lịch sử quân sự của Pháp nói riêng và của cả châu Âu nói chung. Hầu như các cấp lãnh đạo quân sự của châu Âu đều có cùng nhận định như các đồng nghiệp Pháp.

Họ kính nể quyết tâm và khả năng huy động sức người trong trận Điện Biên Phủ của Võ Nguyên Giáp trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất. Nếu Võ Nguyên Giáp là một người sinh trưởng tại các quốc gia phương Tây thì ông đã đón nhận tất cả những vinh hạng của một vị anh hùng, một vị tướng tài ba. Rất tiếc ông là người Việt Nam, và hơn nữa là một đảng viên cộng sản, nên tất cả những vinh dự này đã không được thể hiện đúng mức.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đã nghỉ hưu đôi khi có những phát biểu ôn hòa về các vấn đề của Việt Nam
Sau sự thất trận này, dư luận Pháp đã không thù oán gì Việt Nam mà ngược lại vẫn còn giữ rất nhiều cảm tình với dân tộc Việt Nam và đất nước Việt Nam, lý do là vì con người và đất nước Việt Nam rất hiếu khách và không oán thù người đô hộ sau khi chiến tranh chấm dứt.

Người Pháp có lý do để đề cao yếu tố này, vì trong suốt thời gian chiến tranh, từ 1946 đến tháng 7-1954, không một phụ nữ hay trẻ em người Pháp nào bị bắt làm con tin hay bị sát hại để trả thù báo oán. Đây chính là điều mà dư luận Pháp nói riêng và phương Tây nói chung quí mến dân tộc Việt Nam. Trong chiến tranh thì chém giết nhau không nương tay, nhưng chỉ với những người trực tiếp cầm súng, khi hết chiến tranh thì có thể trở thành bạn bè một cách dễ dàng.

Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2008

55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ Alan Dawson Chương Cuối

Chương 13: Cám ơn

Darwin Judge và William McMahon đã gia nhập binh chủng thuỷ quân lục chiến, gần như cùng một lúc. Họ là loại "con trai" mà đám thuỷ quân lục chiến vũ phu muốn biến thành người lớn. Là VĐV, đã tốt nghiệp trung học, hai anh chàng này đã ra sức luyện tập tại trại tân binh ở đảo Parris. Các tay trung sĩ dữ tợn của thuỷ quân lục chiến muốn có nhiều hơn nữa những tân binh như hai anh chàng này.

Hai người đã cùng sống với nhau gần 4 năm nghĩa vụ ở thuỷ quân lục chiến tự khoác cho mình danh hiệu binh chủng dữ tợn nhất của Mỹ. Họ còn tiếc lỡ mất dịp chiến đấu tại Việt Nam. Ừ thì bây giờ hai người ở Việt Nam rồi đấy. Họ là một phần của lực lượng an ninh sứ quán Hoa kỳ mới được bổ sung. Nhiệm vị duy nhất của lực lượng này là bảo vệ cuộc di tản người Mỹ chống những kẻ phá đám.

Trong 10 ngày qua, Judge, McMahon và một lực lượng an ninh nhỏ đã bao vòng quanh lầu Năm góc phương Đông tại Tân Sơn Nhất. Theo họ, phần xử trí gay nhất không phải là hàng ngàn người đang chuẩn bị rời khỏi Việt Nam mà là việc xử trí với những chiếc xe khốn nạn. Dân chúng lái xe nhà vào sân bay rồi vứt tại chỗ. Judge và McMahon cố gắng dọn quang lối cho xe vào địa điểm di tản.

Hai người trực đêm vào ngày 28-4. Họ chẳng biết gì mấy về chuyện gì đang xảy ra tại xung quanh SG vì những điện đài dã chiến mang theo chỉ bắt tần số của Mỹ. Nó chẳng nói mấy về tin tức bên ngoài thủ đô. Họ không biết được là Biên Hoà đã sụp đổ. Họ chẳng ngờ cái trò chính trị trong cuộc chiến tranh Việt Nam lại sắp sửa kết thúc cuộc đời họ.

Biên Hoà sụp đổ khoảng nửa đêm không làm mấy ai ngạc nhiên. Cái căn cứ ấy trở thành ốc đảo, bị bao vây tứ phía và thậm chí bị cắt khỏi SG, một sự kiện vốn hiếm khi xảy ra. Khoảng 4 sư đoàn Bắc Việt Nam đã pháo kích dữ dội và tràn ngập căn cứ khi trời sập tối. Sự việc chỉ cộc cằn và giản đơn thế thôi. Một lực lượng nhỏ gồm xe tăng và bộ binh ở Biên Hoà rút chạy về hướng SG nhưng họ phải vượt qua ruộng đồng vì các con đường đã bị chặn hết.

Hai sư đoàn khác tấn công Vũng Tàu, cái hải cảng duy nhất còn trong tay SG. Một kế hoạch phòng hờ bất trắc đã dự tính cuộc di tản của Mỹ qua Vũng Tàu bằng đường biển. Hạm đội Mỹ phục vụ di tản bỏ neo ngoài khơi Vũng Tàu. Nhưng trước cuộc tấn công của Cộng Sản, thị xã sụp đổ cũng chỉ còn là vấn đề thời gian, có lẽ vài giờ thôi. Do đó kế hoạch phòng hờ bất trắc kia cũng tuyệt vọng.

Một cuộc pháo kích khác bằng hoả tiễn xuống Tân Sơn Nhất. Cuộc ném bom là dấu hiệu tấn công. Cuộc pháo kích này đã đánh dấu phút mở màn cho cuộc xung phong cuối cùng của số quân Bắc Việt Nam lớn nhất chưa bao giờ có ở một điểm lại tập trung lớn như thế. Bắc Việt Nam có tất cả 24 sư đoàn. Ba trong số ấy nằm lại miền Bắc. 21 sư đoàn kia đang ở xung quanh SG, sẵn sàng tấn công thành phố. Còn SG thì lực lượng thực tế có độ 1 sư đoàn.

Tại phía Bắc SG, nơi các pháo thủ chờ lệnh từ hai ngày qua, những khẩu đại bác quay mũi từ hướng trung tâm SG, nhích sang phía Tây. Lúc 4 giờ 10 phút sáng các khẩu đại bác ấy và có lẽ 50 khẩu khác cùng loại đã mở cuộc pháo kích vào Tân Sơn Nhất. Judge và McMahon đã ngã xuống trong vòng 10 phút đầu của cuộc pháo kích. Judge bị quả đạn pháo trúng ngay mình. Ở cách đó 8m, McMahon cũng chết ngay tức khắc tuy rằng thi thể anh ta không tan nát như người bạn. Quả đạn giết chết hai lính thuỷ đánh bộ là một trong vài ba quả lệch mục tiêu. Nhìn chung, Cộng Sản không can thiệp vào cuộc di tản.

Lúc 6 giờ 30 sáng, Sài Gòn đã thức giấc bởi tiếng gầm thét của đại bác bắn vào Tân Sơn Nhất, Martin đã triệu tập cuộc họp của hội đồng sứ quán. Theo lời những người dự phiên họp ấy, rõ ràng là viên đại sứ đã trở nên bàng hoàng. Polgar (giám đốc phân cục CIA) và tướng Smith nói thẳng thừng với Martin: Cuộc di tản cuối cùng phải được ra lệnh ngay lập tức. tsm bị tấn công có nghhĩa là sân bay đóng cửa. Chẳng ai đoán được bao giờ nó sẽ mở cửa lại. Do đó phải di tản bằng trực thăng càng nhanh càng tốt. Rồi thì cái cây lớn sau nhà sư đoàn phải bị hạ xuống để khỏi cản trở trực thăng.

Martin giận dữ trước sự thách thức ấy. Trước đây, máy bay đã từng đi qua những trận pháo kích. Tình hình chẳng đến nỗi nghiêm trọng. Cuộc di tản bằng phi cơ có cánh cố định vẫn tiếp tục. Để không quân có thể quyết định lúc hạ cánh. Chẳng có lý do gì để hoảng loạn, cũng chẳng có lý do nào để nghĩ đến chuyện di tản bằng trực thăng. Cái cây sẽ không bị hạ xuống. Đốn nó có nghĩa là tự ràng buộc mình vào cuộc di tản cuối cùng. Martin nói ông ta chưa sẵn sàng làm như vậy, nó không cần thiết.

Polgar và Smith bèn nổi nóng. Nói qua hai hàm nghiến chặt vào chỉ vừa đủ để giữ bình tĩnh, họ tìm cách báo cho Martin biết sự thật. Hai lính thuỷ đánh bộ Mỹ chết là chuyện hoạ hoằn-Hàng nghìn người đang ngẹt thở vì Tân Sơn Nhất bị pháo kích. Máy bay chẳng có cách nào hạ cánh. Khu nhà hàng không Mỹ ở đối diện ngay bên đường đi qua lgn Phương Đông đã trở thành đống gạch vụn sau cuộc pháo kích. Mấy chiếc máy bay thường và trực thăng ở đó tiêu tan rồi. Không quân Sài Gòn tan nát vì cuộc pháo kích.

Trùm CIA tóm gọn cảm nghĩ của hầu hết mọi người trong phòng họp: Martin đang mang ảo tưởng. Tình hình đang rất nghiêm trọng. Sài Gòn hoàn toàn bị bao vây rồi. Căn cứ duy nhất còn trong tay chính quyền Sài Gòn là Tân Sơn Nhất. Cuộc xung phong cuối cùng vào chính thành phố có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Ý kiến Martin khăng khăng đòi di tản bằng máy bay có cánh cố định là sai. Nó sẽ phải trả giá bằng sinh mạng. Cuối cùng Polgar nói, nếu Martin không tin ở những người khác nói thì ông ta nên đến Tân Sơn Nhất mà nhìn tận mắt.

Martin chồm lên tức tối. Được-ông ta nói-đấy là điều chính ông ta sẽ làm. Polgar và Smith còn hầm hầm tức giận. Jacobsen khuyên Martin đừng đi Tân Sơn Nhất. Martin cho biết ông ta sẽ đi và ra lệnh ngay lập tức. Jacobsen tuy bênh vực Martin nhưng cũng thấy chỉ bằng cách tận mắt nhìn thấy sự tàn phá tại Tân Sơn Nhất thì đại sứ mới chịu đổi ý nghĩa. An ninh cho Martin được bố trí. Một xe chở đầy lính thuỷ quân lục chiến, và dăm ba lính khác cùng ngồi xe với Martin để bảo vệ.

Smith đi theo Martin vì Tân Sơn Nhất nằm dưới quyền chỉ huy của ông ta.

Khi xe của Martin rời khỏi sứ quán đi về hướng sân bay thì trùm CIA trưng dụng vài lính gác thuỷ quân lục chiến nổ máy cưa và hạ cái cây xuống.

Jacobsen theo dõi qua điện đài từng phút một chuyến đi của Martin đến Tân Sơn Nhất. Ngeh ba bốn điện đài cùng một lúc, ông ta theo dõi tin tức về các đám nổi loạn, pháo kích và những nơi dàn quân của Sài Gòn. Vào lúc ấy, quân đội Sài Gòn là mối nguy hiểm lớn nhất. Đa số quân lính đắng cay trước sự thật hiển nhiên là cuộc rút lui và việc cắt đứt viện trợ của Hoa Kỳ. Đang có tin đồn là các tướng lĩnh Sài Gòn sẽ tìm cách ngăn chặn người Mỹ di tản.

Chuyến đi Tân Sơn Nhất diễn ra trơn tru. Xe của Martin lách qua các đống đổ nát đi vào sân bay. Viên đại sứ không nói một lời. Những người đi theo cho biết thái độ đại sứ ỉu xìu. Rõ ràng là bị bàng hoàng trước sự tàn phá, nguy cơ và khói lửa, Martin dường như không tin vào cả mắt mình. Chiếc xe vòng lại rồi trở về sứ quán lúc 10 giờ.

---------------------------

Sơ đồ Đại sứ quán Mỹ tại SG và đội hình đoàn xe của Martin ra thăm TSN :

 

 

Sau chuyến đi Tân Sơn Nhất, Martin trông như một người mất hồn. Cô thư ký của ông ta muốn rơi nước mắt. Ông ta ít nói, đi thẳng vào văn phòng. Trong vòng nửa giờ, ông ta gọi hầu hết những thành viên trong hội đồng sứ quán lại và ra lệnh tiến hành kế hoạch di tản sau cùng. Vâng, trực thăng phải được sử dụng. Không chắc gì máy bay có cánh cố định hạ xuống được Tân Sơn Nhất. Mọi người nên biết phần việc của mình và nên thi hành. Martin không đề cập gì đến cái cây nếu quả tình là còn nghĩ tới nó.

Tướng Smith cảm thấy nhẹ nhõm đã nhận lệnh qua điện thoại về việc di tản và chuyển nó đi Honolulu theo hệ thống quân đội. Từ đó nó trở về các tàu Mỹ ở ngoài khơi Vũng Tàu. Martin và Polgar thì đánh những bức điện hoả tốc của mình về Bộ ngoại giao và sở chỉ huy CIA. Các viên chức sứ quán lại bắt đầu gọi điện thoại đến các trụ sở, cư xá, tư gia, khách sạn mà họ đã gọi liền 4 giờ trước đó mới hết để báo cho biết sự chuẩn bị trước hạ màn. ”Lần này không có chuyện thực tập đâu”. Họ nói như vậy. Cuộc “kéo mạnh” bắt đầu đấy. Mọi người, nhắc lại nhé, mọi người nên đến trình diện ở địa điểm di tản mà họ được chỉ định.

Trên giấy tờ, nó có vẻ là cuộc di tản liều lĩnh. Nhiều người cho rằng nó lạc quan. Lẽ tất nhiên, rốt cuộc nó đã trở thành cơn ác mộng. Thất bại không phải hoàn toàn vì yếu tố con người tuy có sai lầm nghiêm trọng trong việc làm kế hoạch.

Thứ nhất là vấn đề xe buýt. Mấy ai đã từng lái xe buýt mà cuối cùng cũng phải đi các ngõ hẻm để nhặt từng người. Thứ nhì, ít nhất phải có 25 trực thăng Hu-ây (UH-1) để làm việc cứu người mắc kẹt trên mái nhà. Khi có lệnh, phần lớn phi công đã về nhà. Một nửa số trực thăng bị phá huỷ trong cuộc pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất. Số lớn còn lại phải đi đồng bằng sông Cửu Long nhặt người mà lãnh sự quán Mỹ bỏ lại. Thứ ba là thiếu hợp đồng giữa dân sự và giới quân sự. Ai cũng tưởng bay một chuyến thì xong, nhưng hầu hết đã bay đến lúc kiệt sức. Hơn hết là sự trễ nải của Martin đã đè nặng lên bước “kéo mạnh” sau cùng.

Lúc này, lệnh giới nghiêm 24/24 không còn có hiệu lực và chẳng còn lực lượng an ninh để thúc đẩy thực hiện nó. Có khoảng 100 nghìn linh hồn hoảng loạn, lang thang trên đường phố, theo dõi dấu hiệu cuộc di tản. Họ đã nắm giấy phép mà không đi được. Thế thì tướng Smith đâu, lính mũ nồi xanh đâu? Câu hỏi đến nay chưa được giải đáp. Khoảng 2 giờ chiều lính Sài Gòn không chịu cho xe buýt vào Tân Sơn Nhất nữa bằng cách huơ súng qua lại như đám hung thần trong phim cao bồi. Chỉ có một cổng vào bị một tá lính Sài Gòn giữ chặt. Đáng lẽ lính mũ nồi xanh hay thuỷ quân lục chiến chiếm lấy nó. Sự thất bại trong việc mở cổng dẫn tới sự hoảng loạn cuối cùng ở sứ quán sau này.

Smith muốn bắt đầu di tản lúc giữa trưa. Vì lý do không hiểu nổi, Martin lại ra lệnh hoãn một tiếng đồng hồ. Đang lúc chiếc trực thăng sẵn sàng bay chuyến đầu tiên vào Sài Gòn thì một giọng nói trên đài chỉ huy ra lệnh phi công tắt máy và đợi một giờ nữa. Chẳng biết được ai ra lệnh ấy?

Thuỷ quân lục chiến ở trụ sở DAO phần lớn chưa qua thử thách chiến trường, tất cả đều run sợ trước cái chết của Judge và Mc Mahon và đều mỏi mệt. Hầu hết là một lũ anh hùng rơm. Cộng sản đã giảm pháo kích Tân Sơn Nhất nhưng thỉnh thoảng vẫn có quả đạn rơi xuống, do đó càng gây thêm khiếp đảm.

Sự hoảng loạn bắt đầu khoảng 3 giờ chiều, khi các trực thăng xuất hiện từ hướng Đông. Chúng bay thấp trên bầu trời Sài Gòn. Các đám đông bắt đầu tụ lại ở sứ quán Mỹ. Một trung đội lính thuỷ quân lục chiến mới toanh được trực thăng vận tải từ hạm đội 7 vào giúp việc kiểm soát đám đông. Họ cũng khiếp đảm trước tình hình như vậy. Tại Tân Sơn Nhất, lính gác đang bắn cảnh cáo các xe buýt trở đầy người Mỹ. Các xe phải quay lui vì không ai hiểu liệu lính Sài Gòn có dám thực sự bắn vào xe Mỹ không, nhưng chẳng ai muốn thử làm gì. Cảng Sài Gòn là điểm di tản và cũng như một nhà thương điên.

Nguyễn Cao Kỳ rời khỏi Tân Sơn Nhất trong cuộc di tản bằng trực thăng riêng hóa ra lại đến hạm đội 7 trước cả người Mỹ di tản. Một sĩ quan Mỹ cũng gọi điện thoại báo cho trùm buôn thuốc phiện lậu và là phụ tá quân sự của Thiệu là Đặng Văn Quang rằng, giai đoạn “kéo mạnh” đã bắt đầu. Xoè chứng minh thư ra, Quang đã vào được cổng sau sứ quán, trơ trẽn và vẫn cười hinh hích được. Kẻ thay thế Cao Văn Viên là Vĩnh Lộc đã được đặt lên một trực thăng di tản. Tám, bạn thân mà Martin quan tâm trong việc gói ghém vật dụng trong nhà hom trước cũng leo lên trực thăng. Tướng 3 sao Đồng Văn Khuyên cũng đi mất. Thế là gần hết đám tai to mặt lớn trong bộ máy chỉ huy quân đội Sài Gòn đã lỉnh mất.

Tấn thảm kịch và trò lừa đảo trong cuộc di tản khỏi Sài Gòn sẽ còn được kể nhiều năm nữa. Tuy nhiên, hình như chẳng mấy ai rút ra bài học gì đó ngoài một nhóm nhỏ viên chức Hoa Kỳ.

Một seri hình ảnh về cuộc tháo chạy :

 

 

 

Những lời tiên đoán rằng sứ quán Mỹ sẽ trở thành cảnh tượng chính cho sự hoảng loạn giờ đây thành hiện thực. Không chiếm lĩnh cổng Tân Sơn Nhất, hậu quả là các người Mỹ di tản ngày cuối cùng phải tìm đến sứ quán. Không thực hiện được giới nghiêm 24/24 thì hậu quả là một đám người Nam Việt Nam cuồng nộ ập đến, tràn ngập cả sứ quán. Không tuyển chọn được một lực lượng an ninh có nghĩa là sẽ xảy ra những giờ phút căng thẳng giữa đám đông bên ngoài với thuỷ quân lục chiến bên trong.

Vẫn có những trường hợp đặc biệt, không hề bận tâm gì đến cuộc di tản. Cách Tân Sơn Nhất hai dặm trong một ngõ hẻm, Mike Mielke, một người Mỹ, bình thản nhìn theo những chiếc trực thăng bay qua nhà anh ta ra biển Đông. Mielke đang đứng trong sân trước căn nhà kiểu vla kín cổng cao tường, tiếp tục sơn một cái chuồng chó. Qua điện đài kiểu PRC.25, anh ta lắng nghe sự hoảng loạn lớn dần trong đám người Mỹ tham dự di tản. Trước đây, anh ta là trung sĩ trong lực lượng đặc biệt, làm cố vấn nghĩa quân. Thế nhưng anh ta muốn ở lại cùng với người vợ Việt lai Mỹ tên là Mistry và đứa con gái 2 tuổi tên là Madeleine quen gọi tắt là Linny. Họ đã từ chối vô số lời đề nghị giúp đỡ họ di tản. Melke đang nhấp ly rượu rum pha nước ngọt côla khi cuộc di tản bắt đầu. Trên mái nhà anh ta đã đặt hai tấm ván ép màu da cam thành hình chữ X. Đối với phi công trực thăng, nó có nghĩa là anh ta không muốn ra đi. Vợ anh ta, Mistry (tên Mỹ dịch từ tên tiếng Việt là Sương) không muốn anh ta ra đi. Khi những chiếc trực thăng bay ngang bên cạnh vila của Mielke thì anh ta đã xua tay khinh miệt: “Thôi… Cám ơn! Từ biệt chúng mày, đồ cục cứ ****!”.

Martin liên lạc với Kissinger ở Washington van nài cho cuộc di tản tiếp tục, Kissinger tỏ vẻ khó chịu nói rằng tổng thống muốn loan báo cuộc di tản đã kết thúc. Martin ngỏ ý xin ở lại để giúp Minh lớn và Nam Việt Nam. “Nào Graham-Kissinger nói-chúng ta muốn tất cả trở về thôi”, Kissinger đã ra lệnh buộc Martin phải ra đi.

Tại sứ quán Hoa Kỳ, không ai tin rằng cuộc di tản thế là đã kết thúc. Đám đông người vẫn đông nghẹt cả ở bên trong lẫn bên ngoài. Giữa bóng đêm, không ai nhận thấy đám thuỷ quân lục chiến đã rút vào trong. 4 giờ sáng, đám đông lại nghe thấy tiếng trực thăng bay trở lại. Nó hạ cánh xuống nóc nhà sứ quán. Vài người chạy tới, leo lên máy bay. Ngồi trên trực thăng có Graham Martin. Chưa ai nghĩ đó là chiếc trực thăng di tản cuối cùng. Trời hửng sáng, lại thêm vài chiếc nữa đến bốc nốt đám lính thuỷ quân lục chiến của họ ở Việt Nam.

Tại một khu phố trung tâm Sài Gòn, khi biết tin G.Martin đã ra đi, một nhà báo đã lẩm bẩm rằng “liệu có ai đó nhớ vặn tắt ngọn đèn ở cuối đường hầm chưa nhỉ”. Đến ngày 3-5, Cộng Sản tuyên bố nắm gọn chủ quyền toàn cõi Việt Nam, kể cả các đảo ngoài khơi. Năm 1954, 16 nghìn lính Pháp, lê dương và Việt Nam đã cầm cự với quân đội Bắc Việt Nam 55 ngày đêm ở Điện Biên Phủ rồi thì đầu hàng. 21 năm sau, Bắc Việt Nam đã tràn ngập toàn cõi Nam Việt Nam, đánh bại một đội quân Sài Gòn tất cả là 1 triệu người. Cũng như Điện Biên Phủ, trận đánh này cũng mất 55 ngày đêm cả thảy.

------------------

Lời kết thúc

Sài Gòn không trở thành thành phố Hồ Chí Minh qua một đêm được. Nhưng rõ ràng là những ngày xưa cũ hết rồi. Đường lối chính sách chung được phổ biến rộng rãi và một tờ nhật báo bằng hai thứ tiếng (Việt Nam và Trung Hoa) đã có mặt trên đường phố sau một tuần. Điều hiển nhiên là sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, không có chuyện tắm máu.

Minh lớn và Trần Văn Hương được phép ở lại nhà. Với những người khác, nó là vấn đề cải tạo. Dinh Độc Lập thành “di tích chế độ tư bản”. Sứ quán Mỹ thành một viện bảo tàng. Nhà của viên sĩ quan phụ trách tổng hành dinh Hoa Kỳ, Steven Bray biến thành nơi trưng bày “tội ác chiến tranh của Hoa Kỳ”. Nhà nghỉ mát của Thiệu cạnh bờ sông thành câu lạc bộ công nhân.

Còn một câu chuyện cuối cùng đầy ý nghĩa, liên quan đến binh nhì Đức, người lính thuỷ quân lục chiến Sài Gòn. Mặc dù ngay từ đầu, cuốn sách này đã xác định Đức là nhân vật tổng hợp của mấy thuỷ quân lục chiến, nhưng con người Đức thực sự đã đến với tôi vào tháng 8-1975, khi một trong số nhân viên của UPI bị giữ một tuần lễ. Trong nhà giam, anh ta gặp người lính thuỷ quân lục chiến mà tôi gọi là Đức, nghe kể lại câu chuyện khó tin lúc bấy giờ về cách thức đối xử của Cộng Sản với tù nhân. Không có cách nào liên lạc với Đức để biết đoạn kết thúc. Nhưng với tính cách là một điển hình minh họa cách đối xử của Cộng Sản Việt Nam năm 1975 đối với kẻ thù xưa, thì chuyện này thuộc loại có một không hai.

Trong những ngày cầm súng trong quân đội Sài Gòn, binh nhì Đức đã giết 13 chiến sĩ Cộng Sản, cho đến khi anh ta bị bắt sau ngày “giải phóng”. Đức được đưa đến trung tâm tạm giam chính tại thành phố Biên Hoà cách Sài Gòn 14 dặm về phía Đông Bắc. Trong thâm tâm Đức cảm thấy nhẹ nhõm. Sự tồn tại ngày lại ngày anh ta trải qua từ sau cuộc rút lui khỏi Quảng Trị giờ đây đã đến lúc chấm dứt rồi. Đức cảm thấy đau xót cho gia đình mình, nghĩ rằng mình sẽ bị hành quyết, nhưng anh ta chấp nhận khổ đau không còn sợ chết nữa.

Anh ta nói hết những gì mình đã làm cho các viên chức tại Biên Hoà nghe và phải mất gần trọn một ngày để liệt kê lại những sự kiện “tội ác” đó, thỉnh thoảng chỉ ngập ngừng chút ít trước câu hỏi của người trung tá hỏi cung anh ta.

Nhiều khi Đức ngạc nhiên thấy mình bị nhốt vào một phòng biệt giam tại khám. Phòng thì nóng và thiếu nước. Không có chuyện giặt giũ. Linh gác cũng như tù nhân đều được cung cấp nước uống theo tiêu chuẩn. Ngoài cái đó ra thì mọi việc khác đều có thể chịu đựng được. Đức chuẩn bị tinh thần đón nhận sự hành quyết. Cuộc chiến đấu giờ đây đã tiêu tan trong lòng anh ta và chỉ mong cái chết đến càng nhanh càng tốt.

Vào khoảng giữa buổi sáng ngày hôm sau, Đức được hộ tống đến văn phòng có cái quạt trần vặn tắt rồi. Anh ta cảm thấy và biết rằng bản án sắp sửa được đọc. Quả đúng như thế, mặc dù nó không phải là cái mà Đức mong đợi. Người trung tá bắt đầu giảng giải cho anh khoảng một tiếng đồng hồ. Đại ý như thế này:

Chính quyền cách mạng căm ghét những gì Đức đã làm, nhưng hiểu tại sao anh ta lại làm như thế. Người lính thuỷ quân lục chiến cũ này đã được người Mỹ và phe Sài Gòn huấn luyện để làm việc đó mà đó là việc Đức phải tuân theo mệnh lệnh. Tuy nhiên Đức đã mắc tội là không tuân lệnh chính quyền cách mạng kêu gọi bỏ súng xuống và sớm đầu hàng. Với tội này, Đức sẽ bị giam 6 tháng. Thời gian đó, Đức phải lao động như một người quét dọn nhà tù, sẽ được học tập hai, ba buổi trong một tuần để hiểu biết về chính quyền mới. Nếu sau 6 tháng, Đức chứng tỏ được nhiệt tình với chính quyền, hiểu chính sách, ra sức lao động với công việc quét dọn được chỉ định thì sẽ được thả. Anh ta sẽ được phép trở về gia đình, ở đó anh ta sẽ lao động vì gia đình Đức đã về miền quê. Gia đình Đức đã được thông báo về sự giam giữ và ngày có thể trở về của anh.

Cựu binh nhì Đức cảm thấy biết ơn. Ngượng ngùng trước sự có mặt của bề trên, anh ta lúng túng nói lời cảm ơn và nhận ra rằng, rốt cuộc thì mình vẫn còn ý muốn ham sống. Ngày lại ngày tiếp đó, anh ta chăm chỉ làm công việc người ta giao cho. Đức nói với các tù nhân khác là anh ta có ý định làm đúng theo mệnh lệnh của người trung tá. Đức tỏ ý biết ơn về việc được tạo cho cơ hội làm lại cuộc đời theo như cách nhìn của anh ta đối với bản án.

Vào giữa tháng 8-1975, nhà cầm quyền yêu cầu tôi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Tôi không có cách nào theo dõi sự kết thúc câu chuyện có vẻ tốt đẹp ấy. Ngày 3-9-1975, tôi đáp máy bay rời khỏi Việt Nam sau gần 8 năm rưỡi ở tại một đất nước đã uốn nắn tôi và làm tôi rung động.

55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ Alan Dawson Chương 12

Chương 12: Trước lúc đầu hàng

Loại A.37 được mang đến Việt Nam là do không quân Mỹ trao cho phi công SG. Nó là loại oanh tạc tấn công nhỏ nhưng tốt nhât trong không quân SG. Khoảng 20 chiếc đã bị bỏ lại ở Đà nẵng và hầu như có thể bay đwợc sau khi tu bổ chút ít. Một điểm thuận lợi chính lầ kích thước của nó, chỉ cao ngang tầm vai và có thể bảo quản dễ dàng bởi cỡ người thấp nhất của dân phương Đông vốn nhỏ bé. Nó bay dưới mức siêu âm, nguyên thuỷ là một máy bay huấn luyện và vẫn còn giữ hai chỗ ngồi kề nhau như khi ông thầy và học sinh ngồi bay. Phi công Hoa kỳ nhận thấy nó là loại máy bay lý tưởng cho cuộc chiến Việt Nam, đặc biệt vì nó bay chậm, do đó làm cho phi công có thể thực sự nhìn thấy mục tiêu đang tìm cách đánh trúng.

Nó chẳng phải loại máy bay "con ma" thậm chí nó không thể bay từ SG đi Hà nội để oanh tạc được, tầm hoạt động của nó giới hạn nên đó là lý do khiến ngwời Mỹ có thể giao nó cho quân đội SG. Nó giản đơn so với chiếc phản lực nhưng như thế không có nghĩa là giống như xe hơi kiể T cổ lỗ của Hoa kỳ. Nó bay thuờng xuyên và tốt, chính xác, tuy chỉ sử dụng được vào ban ngày, không bay được trong mưa giông lớn. Nó không có vũ khí tự vệ để chống lại phi cơ khác, không có tên lửa không đối không. Đáng buồn là chính những máy bay ấy lại quật bom vào Tân Sơn Nhât, bịt nốt cái phi cảng cuối cung mà người Mỹ có thể hy vọng di tản qua con đường đó.

Còn một loại bom được để ở Thái lan và chỉ có một ít nằm ở đấy vì sợ tai tiếng chính trị. Số ít người Mỹ biết được sự có mặt của chúng ở Thái lan đã gọi chúng là vũ khí tối hậu mà các sĩ quan không quân Hoa kỳ mê mệt. Chúng chỉ là một trong số hàng trăm vũ khí không nguyên tử và có tính chất huỷ diệt vốn xuất phát từ quỹ nhiều tỷ đô la tài trợ cho quân đội Hoa kỳ giữa thập kỷ 60 để tiến hành chiến tranh Việt Nam. Mục đích các chương trình này là khám phá ra cách giết nhiều địch trong khi lực lượng Mỹ tổn thất ít hơn. máy bay không người lái, lựu đạn cải tiến, bom CBU.55 chỉ là số ít trong những kết quả đạt được.

Bom CBU (viết tắt của các chữ Cluster Bomb Unit) với số hiệu 55 là một trong những vũ khí đáng sợ, có ba khoang chứa đầy nhiên liệu protan, một hỗn hợp bí mật các loại chất khí khác và chất nổ. CBU.55 chưa hề được sử dụng trong chiến tranh. Một số lượng nhỏ loại bom này được để ở Thái lan phòng hờ bất trắc. Tuy nhiên cho đến 4-1975, ít người Mỹ nào lại dám đề nghị sử dụng nó.

Đầu tháng 4, một quả bom CBU.55 được trở bằng máy bay từ căn cứ không quân Utapao đến SG rồi chuyển bằng xe tới căn cứ không quân Biên Hoà. Thứ vũ khí này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát kỹ thuật của Mỹ mặc dù nằm trong tay không quân SG. Thiệu từ chức vẫn không có cách gì cứu vãn đà sụp đổ của quân đội SG, tướng Homer Smith, sĩ quan cao cấp nhất của Mỹ ở Nam Việt Nam đã cho phép SG sử dụng loại vũ khí ấy. Các sĩ quan SG đã chọn Xuân Lộc làm mục tiêu khi lực lượng SG đãng rut lui và Cộng Sản đang tiến về SG. Một máy bay vận tải C.130 được lệnh chuẩn bị sẵn sàng vào sáng 21-4. Quả bom CBU.55 được chất lên. Con ngựa bốn động cơ của hãng Lockhead cất mình nhẹ nhàng khỏi cái phi đạo Biên Hoà và bay thẳng đến Xuân Lộc.

Ở độ cao 6.000m, cánh cửa vỏ sò ở đuôi máy bay mở ra. Cái dù thăng bằng đeo quả bom rơi vào không trung... Với một tiếng rền nghe có vẻ dồn nén kỳ lạ, và một quả cầu lửa khổng lồ bùng lên. Phi hành đoàn kinh sợ nhìn xuống...

Trong vòng hai ngày, đài Hà Nội đã công kich việc sử dụng loại vũ khí mới ấy. Họ miêu tả đúng nó, có lẽ do báo cáo của csc điệp viên ở Tân Sơn Nhất và Biên Hoà. Cộng Sản coi đó là nỗ lực sau cùng trong lúc tuyệt vọng của quân đội SG mà cũng đúng thế thật. Bom CBU.55 không đưọc chở đến nữa. Loại có sẵn ở đó sau này được đem ra phòng trưng bày "tội ác chiến tranh" ở thành phố Hò Chí Minh.

Cũng còn những vũ khí khác được sử dụng trong nhwngx ngày chiến đấu luýnh quýnh sau cùng. C.130 ném dăm ba quả bom loại 15.000 cân Anh (khoảng 7 tấn rưỡi) xuống các vị trí Bắc Việt Nam. Các trực thăng lớn ném "thùng phuy xăng" một thứ bom napan chế tạo nội địa gồm có xăng và mảnh vụn xà phòng hiệu Tuyết Ngà (Ivory Snow). Cũng vì B52 không có thể giúp sức SG được nữa nên đã có nỗ lực tìm cách biến loại C.130 thành máy bay ném bom. Những chuỗi bom 500 cân Anh còn nguyên trong thùng được đẩy ra sau đuôi máy bay vận tải cho rơi xuống. Chúng có chung tác động với cuộc chiến: chẳng làm nổi trò trống gì. Cũng như B52, hầu hết loại bom chùm này cũng chỉ gây tổn thất cho môi trường và đám khỉ.

Các vũ khí bí mật như vậy đã chẳng giúp SG thắng nổi cuộc chiến thì chính trị cũng chẳng làm được gì hơn. Chẳng có sự ủng hộ nào dành cho Hương, dù vài người cũng tin rằng lão già ấy có thể quy tụ được sự ủng hộ nào đó. Martin, đại sứ Mỹ, J. M. Herillon đại sứ Pháp, Trần Văn Lắm, Dương Văn Minh đều có những ý kiến riêng biệt được hoặc quyện vào nhau về cách thức chấm dứt cuộc chiến. Ai cũng muốn hành động tức khắc nhưng giống như diễn viên trong phim hài hước rẻ tiền, họ đụng nhau côm cốp. Không ai biết tất cả những chuyện mà ba người kia đang làm và không ai ủng hộ hoàn toàn việc làm của một trong ba người kia. Có thể so sánh họ với chuyện "Ba thằng hề cộng một".

Cộng Sản lúc đó chưa kêu gọi một cuộc đầu hàng. Đòi hỏi tuyệt đối không được thương lượng là "tất cả lực lượng quân đội Hoa kỳ phải rut ra khỏi Nam Việt Nam". Hà Nội ép SG đang thua phải nhượng bộ. Cộng Sản đã đi theo con đường ấy suốt 43 năm lịch sử. Không bao giờ nhường một tấc trong khi vẫn thúc đẩy để mang về từng thắng lợi ngoại giao hoặc quân sự. Họ chưa hề rut lui trong các đòi hỏi công khai. Giống như một đấu thủ quần vợt đứng sát lưới, họ không để đấu thủ ngoại giao có khoảng trống. Trái bóng chỉ ở sân họ trong tích tắc và không để chạm đất đã nẩy lên. Trong năm 1975 này, B52 không còn lảng vảng gần Hà Nội nữa.

... Cuộc không vận của Mỹ di tản tăng lên hàng ngày. Ngày 24-4, có 24 chuyến bay, phần lớn là loại C.141 với 250 người một chuyến. Ngày 25-4 có 26 chuyến và 26-4 có 31 chuyến. Tầu bè chũng bị gom vào dịch vụ di tản. Martin cho phép trả tiênhối lộ cho cánh sát SG tại sân bay Tân Sơn Nhất để đem người Việt Nam đi qua trạm kiểm soát vào sân bay tham gia di tản. Cứ 20 đô la một xe qua. Trong 10 ngày cuối cùng, tốn khoảng 50.000 đô la. Có lính gác Việt Nam đòi giá rất cao và cũng đượ người Mỹ thoả mãn. Có lẽ 250.000 đô la, thậm chí 500.000 đô la là món tiền hối lộ đã lọt vào túi họ. Suy cho kỹ thì đây là cách nhục mạ cuối cùng mà người Nam Việt Nam đối với người Mỹ. Đến Việt Nam với một mong muốn giúp đỡ - tuy có thể còn phải bàn cãi điều này là phạm sai lầm - người Mỹ giờ đây phải bỏ tiền ra mua lấy sự thoát thân của họ.

Cuộc chiến chưa ngừng lại dù rằng nó giảm xuống mức gần như đứng yên. Nơi thấy rõ điều này là Biên Hoà, căn cứ lớn nhất còn trong tay quân đội SG. Chiến trận ở đây là tiếng còi và tiếng rít xé gió, thứ âm thanh đáng sợ nhất thế giới. Đạn pháo nổ và hoả tiễn ập xuống Biên Hoà với con số ngày càng tăng.

Vào buổi sang Xuân Lộc sụp đổ cũng là ngày Thiệu từ chức thì đạn pháo của Cộng Sản đã làm phi đạo bị tê liệt mất nửa ngày. Nửa lực lượng không quân SG nằm bẹp. Hai ngày sau, đạn pháo và hoả tiễn vẫn còn rơi xuống làm cho không ai ngủ ngon giấc qua đêm. Chúng rơi trúng kho bom rồi trúng cả máy bay. Trực thăng giờ đây trở thành vô dụng và phi công Nam Việt Nam không bay nữa. Ở Biên Hoà hãy còn một ít cố vấn Mỹ đang sửa chữa những chiếc trực thăng để chúng có thể tham chiến. Nhưng khi sửa xong máy bay thì phi công SG lại không chịu bay. Lưới lửa phòng không Bắc Việt Nam đã áp sát Biên Hoà khiến các phi công SG xem trực thăng chỉ là phương tiện để dự trữ chứ không phải là cái gì khác.

Cố vấn Mỹ nổi cáu nhưng người Việt Nam khư khư giữ quyết định của họ. Hầu hết người Mỹ đi SG để về Hoa kỳ. Ngày 23-4, tình hình pháo kích vào Biên Hoà tăng thêm và quân Cộng Sản bao vây căn cứ thì không quân SG bèn rut đi. Máy bay F.5 chuyển về SG, loại A.37 thì về Cần Thơ. Các phi công được cho đi phép một tuần rồi được bảo là sẽ về trình diện ở SG hoặc Cần Thơ. Xe vận tải được gom lại để chuyển bom từ Biên Hoà về các căn cứ mới. Thế là hơn một nửa lực lượng không quân SG đã bị xếp cánh. Cùng ngày ấy, "lãnh sự quán Hoa kỳ" ở Biên Hoà vẫn mở cửa. "Vâng, mở cửa vô hạn định". Ngày hôm sau, cánh cửa đã khoá tịt lại. Người Mỹ đã trốn trong đêm về SG bằng một chiếc trực thăng. Người ta hy vọng lá cờ nhiều sao mà họ bỏ lại tiếp tục bay trên lãnh sự quán sẽ giúp ngăn ngừa sự hoảng loạn ở Biên Hoà.

Lãnh sự quán ở Cần Thơ cũng thế. Họ cũng chuồn về SG ban đêm bằng trực thăng. Người Mỹ từ lâu vẫn nói rằng châu thổ sông Cửu Long là thìa khoá của Nam Việt Nam vì rât đông dân giờ đây lại bỏ ra đi trước khi cuộc chiến bắt đầu.

Ngày 25-4, Bộ Tư lệnh Bắc Việt Nam hỏi các phái đoàn Bắc Việt Nam và Việt Cộng tại sân bay Tân Sơn NHất rằng họ cần bao nhiêu thời gian để chuẩn bị sẵn sàng đối phó với "cuộc giải phóng" bằng bạo lực. Vài phút sau, nột điện mật trả lời rằng cấp trên không phải lo lắng cho những người ở đây. Mọi người owr trại David sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho thắng lợi sau cùng.

Cách SG 6 dặm về phía Bắc, lùi vào quốc lộ đi Biên Hoà 3 dặm, bộ đội Bắc Việt Nam đã chuyển pháo 105 ly đến cánh đồng trống ngay sau các rặng cây và nhà cửa. Họ ít tiếp xúc với dân chúng. Những ai bước ra khỏi nhà để nói chuyện với "quân giải phóng" đều được bảo là nên tránh xa khu vực ấy. Sắp có một trận đánh lớn vào SG và những khẩu đại bác này sẽ phá thành phố thành tro bụi nếu cần. Nhưng họ không biết khi nào thì trận đánh sẽ xẩy ra.

Các sĩ quan cấp thấp thuộc 4 sư đoàn Bắc Việt Nam đã chuyển đến những vùng sát phía Bắc SG. Giữa ban ngày, họ đã tiếp xúc với Việt Cộng nằm vùng. Hầu hết những người này thuộc trung đoàn Đồng Nai cũn. Bộ đội Bắc Việt Nam nói rằng cuộc tấn công SG sắp xẩy ra. Việt Cộng sẽ là người dẫn đường. Nhiều bản đồ đưa ra và những người Cộng Sản trong vùng chỉ cho các sĩ quan biết những con đường, nơi bố trí phòng thủ và các mục tiêu chủ chốt. Các lực lượng Cộng Sản vẫn chuẩn bị một cuộc tấn công toàn lực vào SG, nhưng họ vẫn hy vọng sẽ không cần thiết phải làm như vậy. Xét cho cùng một cuộc đầu hàng cẫn tốt hơn nhiều so với cuộc tấn công tàn phá thành phố. Các nhà chính sách của họ bèn chọn ngày 28-4 là kỳ hạn cuối cùng.

Điều buôn cười lúc này là sự giả vờ can đảm của Nguyễn Cao Kỳ. Kỳ đang tính chuyện bên lề với Bộ trưởng quốc phòng Mỹ nhằm đem các máy bay đi không để lọt vào tay Cộng Sản và cũng đã gửi vợ đi theo các cuộc di tản khỏi Nam Việt Nam. Thế mà Kỳ vẫn được một số người Mỹ tin là can đảm.

Việc Kỳ muốn nắm quyền hành ở Nam Việt Nam thì gần như chuyện công khai. Trong khi kêu gọi Thiệu từ chức, suốt mấy tuần qua Kỳ tự xem mình như là tổng thống, là kẻ cầm đầu cái chế độ ngắc ngoải này. Thế là khi đứng trước đám đông độ 6.000 người thiên chúa giáo khuynh hữu và xế trưa thứ sáu 25-4, cái ngổ ngoá của viên tướng không quân này còn nguyên vẹn. Kỳ nói chuyện phòng thủ SG, rằng những kẻ chạy trốn theo Mỹ là hèn nhát. Đàn bà và trẻ con đã được gửi đi đảo Phú Quốc. Dân SG sẽ đứng lên chống +, Kỳ ở tuyến đầu. Trong lúc bốc lên, viên tướng râu dê này nói nếu cần thành phố sẽ trở thành Stalingrad, nơi đã cầm cự 900 ngày trong vòng vây hãm. Ít ra nhân dân thế giới cũng nhớ đến sự anh dũng của những người bảo vệ Stalingrad chứ sẽ chẳn ai thèm nhớ đến SG nếu nó chịu đầu hàng ngay. Kỳ khuyên mọi người đừng di tản, hãy đứng lên mà chiến đấu. Việc phân phối vũ khí sẽ làm ngay, mọi người nên ở lại SG. Đám dân di cư đã từ Bắc Việt Nam vào đây từ 1954 bị kích động đã hoan hô Kỳ rầm rĩ...

Nhưng sĩ khí chống + chỉ thế thôi đấy. Sau đó Kỳ bỏ vào sân bay Tân Sơn Nhất để sắp xếp cho các máy bay di tản sang Thái lan và đồng thời cũng bí mật ra lệnh cho một chiếc trực thăng đến đón mình. Chẳng dại gì mà liều ở lại với Cộng Sản. Tấn tuồng chống cự của viên tướng can đảm nhất quân đội SG công diễn âm thầm độ nửa giờ là đóng màn. Dù sao các nhà báo nước ngoài lúc ấy cũng ghi vào sổ tay chi tiết đó.

Còn Thiệu và mụ vợ thì đang bận gói ghém vàng, kim cương, ngọc thạch và đồ cổ. Công việc đó là 16 vali quần áo, tư trang và theo tin ở dinh thì còn 100.000 đô la nữa. Martin giúp bọn này ra đi và có ý định chỉ cho mang đồ vật cá nhân nhẹ. Thế là tay cựu tổng thống và mụ vợ phải tính đến cách khác. Mai Anh đã xoay xở lấy được 16 tấn vàng ra khỏi ngân hàng bắng cách ép, doạ bọn thuộc cấp. Vàng nằm trong dinh lúc Thiệu từ chức "vì lý do an ninh". Mụ ta cho chuyển phần lớn số vàn thỏi ấy lên một máy bay thuê của hãng hàng không Thuỵ Sĩ, nhưng các phi công đòi biết trong thùng hàng có gì, theo nguyên tắc phòng xa. Họ khám phá ra đó là vàng nên phải hỏi lãnh sự quán Thuỵ Sĩ và rồi họ từ chối không chở nữa. Lý Long Thân (tay người Hoa, chồng em nuôi vợ Thiệu) nhảy vào cứu nguy. Tay này có phương tiện riêng là tầu "Trương tinh", tuy không phải là tầu đi xa nhưng khẩn cấp quá rồi. Thân ra lệnh chở vàng đi Pháp, sau này Thiệu có thể nhận lại ở đó. Ngọc thạch và kim cương hầu hết đóng thùng kỹ lưỡng và vợ Thiệu giám sát từng bước gói ghém hàng.

Đến lượt những thứ đò cổ. Giá trị của chúng không ai biết rõ là đồ của viện bảo tàng SG thì chác là phải đáng giá nhiều. Buồn thay, nhiều thứ lại vô giá trị. Các nhân viên bảo tàng cũng ăn hối lộ như điên nên đã thay thế phần lớn đồ cổ bằng những thứ giả giống hệt nó. Họ đem bán chúng (đồ thật) cho các chủ hiệu và người sưu tầm. Vợ Thiệu chẳng biết gì và cứ yêu cầu viên phụ tá của Thiệu là Đặng Văn Quang thu xếp gửi đi đau đấy. Quang chọn Canada là nơi lưu vong đã chuyển những đồ cổ thật lẫn giả lên một chiếc tầu đi Montreal thông qua Hoa kỳ. Vợ Thiệu vẫn đinh ninh như thế.

Một cách tuyệt đối bí mật, chiếc máy bay C.118 của không quân Mỹ đến Tân Sơn Nhất lúc 3 giờ sáng ngày 26-4 để chở thiệu đi di tản. Thiệu được báo trước một giờ để sửa soạn hành lý lần cuối cùng, kể cả chuyện lén lút chở đi số tiền 100 nghìn đôla mà Kỳ nói là đầy ắp 4 vali thuộc quỹ dự phòng hờ trong dinh. Cựu thủ tướng và là tướng 4 sao Khiêm được báo trước 20 phút. Xe Mỹ chở họ đến Tân Sơn Nhất. Máy bay cất cánh đi Đài Loan. Chẳng có họp báo, chẳng có tường thuật việc Thiệu đến Đài Bắc. Cuộc ra đi của Thiệu âm thầm và hoàn toàn nhục nhã.

Quốc hội Sài Gòn họp sau lúc Thiệu ra đi. Một số ý kiến đồng ý với Martin nên cử Hương hay Trần Văn Lắm làm tổng thống. Lắm vẫn mơ ước chức vụ ấy và đến lúc này vẫn còn thèm. Khi cộng sản đã vây chặt Sài Gòn và sắp san nó thành bình địa thì Martin lại có ý kiến khác nữa là Hương hoặc Lắm, ai làm tổng thống cũng được, còn thủ tướng nên để cho Minh lớn.

Trước lúc bình minh ngày thứ bảy, nhiều xe vận tải Bắc Việt Nam đỗ lại bên sông Sài Gòn cách thủ đô 6 dặm về phía Bắc. Chúng chở hoả tiễn và đạn pháo 105. Những đại bác và hoả tiễn này đã nằm vào các vị trí bắn sau những rặng cây. Chiến tranh bắt đầu trở lại sáng chủ nhật và báo hiệu bằng tin dữ: 4 hoả tiễn rơi xuống Sài Gòn. Đây là dấu hiệu cho thấy phút bắt đầu của giai đoạn cuối và ai nấy đều biết. Ba năm rưỡi, chưa có đạn pháo hay hoả tiễn rơi xuống Sài Gòn. Bây giờ chiến tranh đang rẽ sang một bước ngoặt mới, cho thấy Hà Nội sẵn sàng tấn công Sài Gòn. Thời gian cấp bách một cách tuyệt vọng. Sự xào xáo chính trị nội bộ bây giờ là một thứ xa hoa không còn chỗ đứng.

Phòng tuyến sau cùng của Sài Gòn bắt đầu rung rinh vào sáng chủ nhật. Tại Long Thành, một trong những trận đánh bằng xe tăng dữ dội nhất cuộc chiến đã xảy ra, xe tăng Bắc Việt tràn ngập lên căn cứ thiết giáp của quân đội Sài Gòn. Trong vòng cung từ Đông Nam sang Đông Bắc chỉ còn căn cứ không quân Biên Hoà, đang bị cắt đứt ngày chủ nhật, lần cuối cùng và mãi mãi. Những cuộc tấn công dữ dội vào các tiền đồn ở Mỹ Tho-Long An đã đẩy sư đoàn 9 lùi về phía Sài Gòn. Phía Nam và Tây Nam Sài Gòn, 20 nghìn bộ đội Bắc Việt Nam chỉ còn cách Sài Gòn 15 dặm. Phía Tây Bắc Sài Gòn, dọc quốc lộ 1 đi Campuchia, vài sư đoàn Bắc Việt Nam đã cắt đứt con đường ấy, đẩy sư đoàn 25 giạt ra 2 hướng nằm ngoài xa vành đai Sài Gòn. Hai đại đội của sư đoàn 9 Bắc Việt Nam rẽ vào Gia Định, chốt các cầu trên quốc lộ 1 gần cửa hàng tạp hóa Mỹ và kho chứa hàng viện trợ Mỹ.

Các tướng lĩnh Sài Gòn bắt đầu dàn thế trận lần cuối. Biệt động quân và lữ đoàn dù cuối cùng được dàn thành hình quạt tù phía Nam sang Đông Bắc Sài Gòn. Đó là lực lượng phòng thủ đáng thương hại, bị áp đảo với tỷ lệ 1 chọi 15. Phe Cộng Sản đang thiết lập vị trí tiền tiêu, thử phản ứng của quân đội Sài Gòn. Nhưng viên tướng 4 sao duy nhất trong quân đội lúc bấy giờ là Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã lên máy bay riêng loại C.47 vào xế trưa thứ hai bay đi Băng-cốc. Hơn nửa số tướng lĩnh Sài Gòn đã bỏ chạy khỏi đất nước. Thủ tướng cuối cùng-Nguyễn Bá Cẩn cũng lên chiếc C.141 rời Sài Gòn.

Ba hoả tiễn rơi xướng Sài Gòn ngày thứ hai. Không cần lời cảnh cáo nào thêm nữa về việc cộng sản sẵn sàng đánh chiếm Sài Gòn. Đến trưa, thính giả nghe đài phát thanh của sứ quán biết được Martin đang làm gì trong phần thời gian cuối trong ngày cuối khốn khổ này. “Đại sứ Tám có một bộ sưu tập những vật quý giá trao cho đại sứ (Mỹ) giữ gìn và ông ta cần một số người gói hàng. Ông ta cần khoảng 20 hộp nhỏ, khoảng một tá hộp lớn hoặc thùng và một số chăn bông. Đại sứ Martin quan tâm trong vụ này: Chúng tôi muốn chuyển ông ta (Tám) và đi vào ngày hôm nay…”.

Ai đó ở đầu bên kia đài phát thanh của đại sứ quán đã vạch cho thấy những vấn đề cụ thể trong việc chuyển đồ cổ của tướng 3 sao Trần Ngọc Tám, người đã trở thành bạn của Martin khi cả hai đều làm đại sứ tại Thái Lan trong thập kỷ 60. Có lẽ Martin muốn giúp đỡ gói ghém hành lý. Nhưng những người di tản khác thì đang ra đi một cách khôn ngoan. Họ bỏ lại tài sản cuộc đời-hay nói đúng hơn là tìm cách dồn tài sản cuộc đời vào trong một cái túi đeo vài thôi thì mới thoát được.

Minh lớn lái xe đến dinh, dù đoạn đường chỉ 5 phút đi bộ. Minh gặp Hương tại cửa. Khi Hương đọc diễn văn ngắn trao quyền cho Minh thì tổng thống mới xem lại bài viết. Minh bước lên diễn đàn hô hào thành lập một chính quyền gồm mọi thành phần chính kiến khác nhau. Đám mây trên Sài Gòn bung ra và trút xuống một cơn mưa lớn. Một tiếng sét và sấm rền âm vang làm im lặng căn phòng. Lúc ấy là 5 giờ 15 chiều. Minh bước ra khỏi dinh, về ăn cơm chiều thì 5 chiếc phản lực A.37 đang bay thẳng về phía sân bay Sài Gòn. Những lệnh ngắn qua điện đài được đánh lên máy bay, yêu cầu chúng cho biết xuất xứ. Không có câu trả lời nào.

Minh họa mấy chiếc A-37

 

Ba hoả tiễn rơi xuống SG vào ngày thứ hai. Không cần lời cảnh cáo nào thêm nữa về việc Cộng Sản sẵn sàng đánh chiếm SG. Đến trưa, thính giả nghe đài phát thanh của sứ quán biết được Martin đang làm gì trong phần thời gian cuối trong ngày cuối khốn khổ này. "Đại sứ Tám có một bộ sưu tập những vật quý giá trao cho đại sứ (Mỹ) giữ gìn và ông ta cần một số người gói hàng. Ông ra cần khoảng 20 hộp nhỏ, khoảng 1 tá hộp lớn hoặc thùng và một số chăn bông. Đại sứ Martin quan tâm trong vụ này: Chúng tôi muốn chuyển ông ta (Tám) đi vào ngày hôm nay..."

Ai đó ở đầu cầu bên kia đài phát thanh của đại sứ quán đã vạch cho thấy những vấn đề cụ thể trong việc chuyển đồ cổ của tướng 3 sao Trần Ngọc Tám, người đã chở thành bạn của Martin khi cả hai đều làm đại sứ tại Thái lan trong thập kỷ 60. Có lẽ Martin muốn giúp đỡ Tám gói ghém hành lý. Nhưng những người di tản khác thì đang ra đi một cách khôn ngoan. Họ bỏ lại tài sản cuộc đời - hay đúng hơn là tìm cách dồn tài sản cuộc đời vào trong một cái túi đeo vai thôi thì mới thoát được...

Minh lớn lái xe đến dinh, dù đoạn đường chỉ 5 phut đi bộ. Minh gặp Hương tại cửa... Khi Hương đọc diễn văn ngắn trao quyền cho Minh thì tay tổng thống mới xem lại bài viết. Minh bước lên diễn đàn hô hào thành lập một chính quyền gồm mọi thành phần chính kiến khác nhau... Đám mây trên SG bung ra và trút xuống một cơn mưa lớn. Một tiếng sét và sấm ầm vang làm im lặng căn phòng. Lúc ấy là 5 giờ 15 chiều. Minh bước ra khỏi dinh và về ăn cơm chiều thì 5 chiếc phản lực A.37 đang bay về phía sân bay SG. Những lệnh ngân qua điện đài được đánh lên máy bay đã yêu cầu chúng cho biết xuất xứ. Không có câu trả lời nào...

Đại tá Tuấn, tham mưu phó hành quân của SG làm việc với sư đoàn 5 không quân tình cờ có mặt tại đài kiểm soát không lưu. Tuấn đang ra lệnh cho chuyến bay khác ngừng lại vì có đám mây đen tích điện. Tuấn nghi ngờ 5 chiếc A.37, bèn ra lệnh gọi đi Cần Thơ và Biên Hoà. Các căn cứ này trả lời họ không bay. Thật ra nó từ Phan Rang tới và do các phi công Bắc Việt Nam lái. Không có chuyện bay thử ngang qua một lượt. Ngay trong lần đầu tiên bay qua căn cứ, những phi công lái MIG lão luyện này đã bấm nút thả bom, một tá bom loại 500 cân Anh rơi xuống khu vực quân sự.

Bài diễn văn kêu gọi thương thuyết của Minh lớn được A.37 trả lời sau 35 phut tính từ khi Minh ngừng nói. Tại Tân Sơn Nhất, hàng ngàn người đều kinh hoàng. Chưa mấy người đã nằm dưới trận ném bom. Trong hầu hết mọi tần số, tiếng gọi qua điện đài loạn xạ xin được hướng dẫn làm gì. Một người Mỹ trong sứ quán nói với các người đang nghe tần số của mình: "Chẳng thể làm gì được cả. Nằm sấp xuống và nín thở thôi". Người khác nói: "Chúng tới phía trước, ôm lấy hai bắp chân vào mình, cuíu đầu xuống càng thấp càng tôt. Nếu cần, hôn từ giã cái mông của anh đi". Tuấn muốn phóng các F.5 lên trời. Một lần nữa các phi công SG không có mặt trong máy bay theo quy định.

Tại trung tâm SG, dân chúng biết chắc rằng cuộc tấn công sau cùng vào SG đã bắt đầu. Hơn 100.000 bộ đội Bắc Việt Nam và những người Việt Cộng dẫn đường đã trang bị lên vai sẵn sàng bằng SG. Từ bây giờ trở đi, nó sẽ là cuộc chiến tranh khong còn gì hạn chế và kiềm chế nữa. Đêm thứ hai, sau cuộc ném bom, các người phát ngôn SG cho biết điều kiện đi đến hoà bình là "giải trừ bộ máy chiến tranh và kìm kẹp của SG". Nói khác đi, quyết định đã có rồi. SG sẽ phải đầu hàng quân sự hoặc là quân đội Bắc Việt Nam sẽ đáng chiếm thủ đô. Trường hợp sau, ít có hy vọng là họ sẽ thua trận.

55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ Alan Dawson Chương 9 10 11

Chương 9 : Kẻ cầm đầu chế độ

Hai ngày sau khi Phan Rang sụp đổ, tỉnh lỵ anh em với nó là Phan Thiết cũng bị Bắc Việt Nam chiếm nốt. Thế là Cộng Sản kiểm soát 20 tỉnh, trọn vẹn 2 quân khu, hai phần ba Nam Việt Nam rồi. Ở Sài Gòn, các thế lực đều đòi thủ cấp chính trị của Thiệu, kẻ cầm đầu chế độ.

Phe tự nhận là trung lập của Sài Gòn, không thích Cộng Sản và không thích chống + cũng muốn Thiệu ra đi. Phe cực hữu cũng muốn Thiệu ra đi, và éo le thay, chính họ lại công khai tấn công vào sự tham nhũng của tổng thống.

Từ tháng 9-1974, nhóm này đã phổ biến “bản cáo trạng số 1”. Các nhật báo Sài Gòn đăng cáo trạng này đều bị tịch thu nhưng vẫn còn rất nhiều bản được chuyền tay trong dân chúng khắp đất nước. Những lời tố cáo đó mang tính chất nghiêm trọng và có giá trị tài liệu.

Thiệu, với lợi tức chỉ vài trăm đôla hàng tháng mà có hai căn nhà ở Sài Gòn, trị giá hơn 150 nghìn đôla, một nhà thuỷ tạ ở sát phía Bắc Sài Gòn, một “vila tráng lệ” ở Thuỵ Sĩ, nhiều đất đai ở vô số tỉnh. Vợ Thiệu xây cái gọi là bệnh viện cho người nghèo, đã dùng hàng lậu thuế để trang trải việc xây dựng, bòn rút ngoại viện vào túi và kết cục thì dân nghèo không thể vào bệnh viện này. Anh vợ Thiệu thì đầu cơ nâng giá phân bón hóa học do Mỹ cung cấp, bán cho nông dân với giá cắt cổ. Cố vấn cho Thiệu là Đặng Văn Quang và Trần Thiện Khiêm tổ chức buôn thuốc phiện lậu. Một người cô của Thiệu tích trữ đầu cơ và nâng giá gạo, thâu tóm nhiều phương tiện vận tải để làm giàu. Thiệu còn “nhận quà” bằng đất đai, dùng công binh xây trang trại riêng…

Những lời tố cáo như bom nổ. Tuy bản cáo trạng thứ hai không gây náo động như bản cáo trạng thứ nhất, nhưng lại được dư luận rộng rãi tin. Thế là những người cánh hữu cương quyết đòi uống máu Thiệu về mặt chính trị. Còn ở mức độ rộng lớn, quân đội Sài Gòn muốn Thiệu ra đi vào tuần thứ nhì của tháng 4-1975. Đây là lá phiếu quan trọng nhất chống lại tổng thống. Sau 10 năm ở chức vụ cao nhất tại Nam Việt Nam trong đó 8 năm làm tổng thống, năm 1975 Thiệu là người giàu nhất Nam Việt Nam nhờ tham nhũng. Trong chức vụ, Thiệu không hề được phép nhận hơn số lương 600 đôla mỗi tháng, và có lẽ từ 300 đến 400 đôla phụ cấp. Thế nhưng dù xét bất cứ tiêu chuẩn nào, thì Thiệu đã và vẫn còn giàu sụ.

Làm thế nào giàu được, đó là chuyện phức tạp và quanh co. Những gì sắp kể ra đây chắc chắn là không đủ. Cái biết được là với hai trường hợp ngoại lệ-một vila ở Thuỵ Sĩ và một ngân hàng Sài Gòn bị phá sản-còn tên thì cả Thiệu lẫn tên vợ Thiệu đều không tim thấy trong bất cứ hồ sơ nào. Thế mà họ đã trở nên giàu có. Theo các cuộc phỏng vấn và các nguồn điều tra khác thì gia đình Thiệu đã ăn cắp hàng trăm triệu đôla. Đó là tiền thuế của dân Mỹ và dân chúng đất nước họ.

Công cuộc làm tiền của Thiệu là dựa trên chiến tranh và môi trường cuộc chiến do viện trợ Mỹ nuôi dưỡng. Có lẽ Thiệu thành thật tin rằng không bao giờ thương lượng được với Cộng Sản. Thiệu tin như vậy nên cuộc chiến tiếp tục. Bởi vì cuộc chiến tiếp diễn nên Thiệu và gia đình Thiệu giàu thêm. Ở hạ tầng, sự tham nhũng đơn giản. Nhưng ở thượng tầng, nó là một mạng lưới phức tạp. Cũng như đảng maphia, nó lấy việc bảo vệ tay thủ lĩnh làm mục đích chính.

Ở hạ tầng, nó là sự mua bán thế lực vụn vặt, bảo vệ và tống tiền. Một tiệm thuốc đường Catinat bán công khai thuốc cần sa nha phiến cho lính Mỹ vì chủ tiệm được cảnh sát bảo vệ. Các chỉ huy Mỹ cấm lính tới đó vì thuốc ma tuý được chuyển qua gái bán bar. Những tay buôn gỗ ở Tây Nguyên hoạt động được vì các cấp chỉ huy quân đội được trả một số phần trăm lợi nhuận. Tiền lời ngừng trả thì đoàn xe trở gỗ bị phục kích bởi "du kích Việt Cộng"

Khi tham nhũng trở nên quan trọng và số tiền dính líu nhiều hơn thì hệ thống trở thành một mạng lưới hình tháp. Ngồi trên đỉnh tháp tham nhũng tại Nam Việt Nam là Thiệu. Tháp chỉ là công cụ tổ chưc không nhất thiết là con đường chuyển tiền. Bằng cách cho những người xung quanh cái tháp ấy tự kiếm ăn, Thiệu tạo được ân nghĩa và những món nợ quyền lực. Từ 1965 - 1975, y đã tạo hàng ngàn hoặc hàng vạn ơn nghĩa. Khi cần đền đáp thì lớn bé trong cái tháp ấy răm rắp tuân theo.

Phải hiểu rằng ở Nam Việt Nam, dù hiến pháp có được tuân theo triệt đểthì tổng thống vẫn có quyền lực bao la. Thiệu có quyền nhiều hơn cả hiến pháp cho phép. Là chủ tịch hội đồng tướng lĩnh, một cơ quan nằm ngoài hiến pháp, Thiệu nắm quyền hành trưởng hội đòng này. Là tổng tư lệnh quân đội, đứng đầu tổ chức hành chính công vụ, một tay Thiêuh nắm hơn 3 triệu chỗ làm, một nửa chỗ công ăn việc làm của chế độ. Thiệu giữ toàn quyền bổ nhiêm thăng thưởng, giáng và cách chức 3 triệu người giữ các chỗ làm ấy, không uỷ nhiệm cho ai.

Tiền bạc tuồn lọt từ cao xuống thấp và ngược lại. Mỗi cấp rut bớt phần ra để chia xẻ cho họ. Đó là hoạt động của đường dây tham nhũng. Nhưng hình như Thiệu không thèm làm. Tiền hậu tạ của chủ hiệu Bar, kiều dân nhập cư bất hợp pháp... không đến tay Thiệu. Y thu lượm ân nghĩa và dùng ơn nghĩa giúp tay tổng thống này lám giầu theo các kế hoạch riêng. Phương pháp thu lượm ơn nghĩa được G. Lansdale mô tả như sau:

"... Guồng máy dân sự và quân sự hoạt động theo một chế độ chủ nhân xoay quanh mỗi tư lệnh quân đoàn. Mỗi người đã bổ nhiệm và cách chức một tỉnh trưởng, quận trưởng". Năm 1975, Thiệu bổ nhiệm và cách chức thường xuyên 4 tư lệnh quân đoàn, nắm phần lớn lớn việc bổ nhiệm tư lệnh sư đoàn, như vậy là còn nắm quyền kiểm soát nhiều hơn cái chế độ mà Lansdale đã nói trong năm 1958. Một thí dụ đặc biệt cho thấy cách thứ hoạt động của Thiệu. Năm 1973 y thăng cấp lên tướng 3 sao cho Nguyễn Vĩnh Nghi và bổ nhiệm Nghi làm tư lệnh quân đoàn 4, tức là Nam Bộ. Nghi được tự do xoay xở làm giầu. Vào giữa nam 74, các nguồn tin sứ quán Hoa Kỳ nói rằng 8.000 điện đài và 25.000 khẩu súng M.16 và vũ khí nhỏ khac đã biến mât khỏi kho quân khu 4 trong thời gian Nghi làm tư lệnh. Bản cáo trạng số 1 buộc Thiệu có hành động tượng trưng để dẹp tham nhũng, thì tay tổng thống đã phải cách chưc Nghi. Hai tướng lĩnh khac thuộc quân khu 3 đã bị nhôt năm 1974 khi những người đi điều tra của cả quân đội SG lẫn sứ quán Hoa Kỳ nói là tụi này đã cố tình bán gạo cho Việ Cộng. Hai người đó là Trần Quốc Lịch của sư đoàn 25 Tây Bắc SG và Lê Văn Tư của sư đoàn 5 ở hướng Bắc thủ đô. Việc bán lương thực và trang bị quân sự cũng như giấy hoãn quân dịch trong 2 sư đoàn đã làm hai đơn vị này về mặt tác chiến trở nên vô hiệu lực. Đến lúc chúng buộc phải ném vào trận đánh ở SG tháng 4-1975 thì sư đoàn 25 đã không thể nào hành quân như lực lượng chiến đấu.

Những bổ nhiệm vào hàng tá chức vụ như thế là do Thiệu làm ra, với cách tính toán là tạo ra ơn nghĩa để dùng sau này. Một viên tướng được Thiệu bổ nhiệm là có thể tự do xây dựng mạng lưới tham nhũng riêng của mình. Kiếm tiền bằng cách ghi vào sổ lương sư đoàn những lính ma. Bán những chỗ làm việc an toàn tránh xa chiến trường cho binh sĩ nào muốn và đủ sưc trả cái giá đưa ra. Bán trang bị dành cho đơn vị ra chợ trời, thậm chí bán cả cho Việt cộng. Họ cố tránh bán vũ khí sợ Mỹ biêtthí phải mở cuộc điều tra, còn đồ dùng nhà ăn tập thể, quân phục, xe Jeep, giầy cao cổ thì mang lại nhiều tiền và các mặt hàng này tràn trề ngoài chợ trời chứng tỏ các sĩ quan cao cấp phải nhúng tay vào. Xăng trở thành mặt hàng đắt khách ở chọ trời sau khi khối Ả rập nâng giá. Một số tướng lĩnh SG rỗ ràng đã điều khiển các đường dây, bảo vệ đám con buôn chợ trời và buôn lậu.

Họ làm tiền thế nào, Thiệu không cần để ý. Chỉ có quy định ngầm là phải tránh các đường dây do tay tổng thống này và gia đình điều khiển. Thiệu côt tạo ơn nghiã và ta sẽ xem ân nghĩa được đáp trả như thế nào?

Tướng lĩnh do Thiêubổ nhiệm có quyền bổ nhiệm cấp thuộc hạ của mình. Ở đây, tiền mặt được trao tay. Chỗ làm cao giá nhất là chỉ huy trưởng cảnh sát Chợ Lớn, khu người Hoa. Chức vị đó khoảng 15 triệu tức khoảng 130.000 đô la. Chỗ này dễ kiếm tiền đến nỗi chỉ sau 2-3 tháng là đủ tiền trả chỗ. Các đại tá quân đội phải mua 80.000 đô la nếu muốn làm tỉnh trưởng Châu Đốc, giáp biên giới với Cambodia. Nguồn thu chính là qua các tay buôn lậu trâu bò, tiền lời đến theo đầu súc vật qua biên giới.

Đi dần lên trong các cấp chính quyền, hầu hết các bộ trưởng đã xoay xở làm giầu bằng tham nhũng. Điển hình là Phạm Kim Ngọc, bộ trưởng kinh tế được Mỹ thích, đã xoay xở mở được trương mục 8 triệu đô la ở Đài Loan bằng cách lấy "tiền hoa hồng" do việc đảm bảo những hợp đồng của các công ty muốn làm ăn ở Việt Nam.

Nhưng so chuyện Thiệu và gia đình tay tổng thống này làm thì các chuyện trên không đáng kể. hai người làm tấm che gió án ngữ sự tham nhũng hàng triệu đô la cho Thiệu là Nguyễn Thị Mai Anh, vợ thiệu và Lý Long Thân, tên chồng người Hoa của cô em gái nuôi Mai Anh. Những số tiền lớn từ đó đi vào các trương mục ngân hàng của Thiệu ở Singapore, Thuỵ Sĩ, chia lời thầm lặng ở Đài Loan, Guam, Hawai vv...

Những dính líu của Mai anh khó xac lập thành hồ sơ. Mụ ta là một tay mê say kim cương có tiếng. Trong các cuộc chiêu đãi, mụ ta bàn bạc về kim cương một cách thông thạo với các mệnh phụ trong đoàn ngoại giao và khách mời. Mai Anh thường đeo một viên kim cương lớn khi đi ra ngoài và luân chuyển các nữ trang kim cương thành sưu tập lớn. Theo một số người thì mụ ta có một bộ sưu tập về kim cương hạng nhất châu Á, cả về số lưọng lẫn chất lượng.

Nguồn thu nhập quan trọng của Thiệu là buôn lậu, cả trong lẫn ngoài Việt Nam. Kim lọai vụn: đồng, sắt, đặc biệt đồng là món hàng xuất khẩu béo bở nhất. Đồng là phần còn lại của những viên đạn và đại bác bắn đi. Sắt là tàn tích của xe tăng, xe vận tải và máy bay bị hư hại trong chiến tranh. Kim loại vụn lúc đó là mặt hàng được giá trên mọi thj trường, đặc biệt tại Nhật vì giá thép tăng cao. Một triệu lính bắn biết bao đạn dược. Họ dùng hỏng bao nhiêu xe tăng, xe vận tải, xe jeep, máy bay, điện đài, máy đánh chữ. Trong lúc rut đi, nó bị bỏ lại ở chiến trường, được thu gọn về các kho sắt vụn và bắt đầu cuộc đời mới là vật làm ra tiền cho Thiệu.

Bản thân việc buôn lậu thì đơn giản, cần it người nhúng tay. Kẻ nào nhúng tay đều mang ơn nghĩa của Thiệu. Chính vào giai đoạn này của cuộc làm ăn, tay tổng thống này mới gọi đến những tướng tá vốn mắc nợ Thiệu về chức vụ mang ân nghĩa đến. Trả ơn thật đơn giản. Các anh hãy quay mặt đi đúng lúc và ra lệnh cho thuộc hạ cũng làm như thế.

Kim loại phế thải trở bằng xe nhà binh, phủ bạt kín để tránh các cặp mắt tò mò. Điểm trở hàng đến thường là cẳng SG. Tay tổng thống cũng dễ dàng đòi các viên chức ở đây quay mặt đi chỗ khác. Tầu chở thuê đăng ký quốc tịch Panama, thuỷ thủ là người Nam Triều Tiên. Ra đến biển khơi thì các tay tài phiệt Mỹ mới nhúng tay vào.

Mai Anh đích thân lo việc lấy tiền hàng. Lý Long Thân thì sắp xếp các chi tiết tẩy xoá sự tham nhũng ở các ngân hàng Đài Loan, Hongkong, Singapore, Philipin, Guam. Mai Anh thỉnh thoảng dùng lý do che đậy là đi thăm con ở châu Âu để bỏ tiền vào ngân hàng hay biến nó thành đồ nữ trang. Trong một chuyến đi như vậy năm 1972, Mai Anh đã mua một villa ở Thuỵ Sĩ.

Việc buôn lậu ra nước ngoài đáng trách nhưng it gây hậu quả cho cuộc chiến. Buôn lậu trong nước gây chết chóc, kéo dài chiến tranh và giúp sức trực tiếp cho Việt Cộng. Hàng không Việt Nam (Air Vietnam) từ SG bay đến 11 thành phố châu Á nằm dưới quyền điều khiển của Trung. Con trai Trung là chồng con gái Thiệu. Các khoang chứa hàng của máy bay E Vietnam (Air Vietnam) từ Tokyo, Hongkong, Singapore về đều chất đầy hàng. Rượu, thuốc lá, son phấn, hàng điện tử, cúc áo, đồ dùng phòng ăn... hầu hết những thứ nhét lọt qua khoang chở hàng đều có mặt trên các chuyến bay phản lực về Việt Nam, được biết là đều theo chỉ thj của vợ Thiệu. Hàng về, binh sĩ SG bao quanh máy bay đông nghẹt. Họ bốc xuống xe nhà binh những thùng rượu Pháp, hàng Nhật, Hongkong trước con mắt của khách nhìn qua cửa sổ.

Sự tham nhũng của Thiệu đặc biệt có hại cho Nam Việt Nam kể rừ 1972 trở đi, khi Nam Việt Nam chệnh choạng trên bờ vực phá sản. Viện trợ của Mỹ giảm, giá hàng lại tăng. Thiệu, đám bạn bè và gia đình tay tổng thống mỗi ngày một giầu. Dân chúng thì mất niềm tin ở tổng thống của họ. Đến giữa tháng tư, khi Thiệu bước sang năm thứ 10 làm quốc trưởng Nam Việt Nam thì sức ép đãquá lớn rồi. Vấn đề không còn là Thiệu có ra đi hay không mà phải ra đi và như thế nào.

Chỉ có Graham Martin là không muốn Thiệu ra đi. Theo lời một số người trong đám thân tín của viên đại sứ thì Martin cho rằng "Thiệu là tổng thống duy nhất mà chúng ta (Mỹ) có thể kiếm được". Cái mà Martin hy vọng là Thiệu chịu thương lượng với Hà Nội để tìm kiếm hoà bình. Martin đã mất không biết bao thời gian để thuyết phục Thiệu. Như vậy thì buộc Thiệu phải quỳ xuống van xin thương lượng để Hà Nội và Việt Cộng nhổ nước bọt vào mặt mình. Thiệu không chịu và chiến tranh cứ kéo dài.

 

Chương 10: "Guốc bai - ông Mỹ"

Đêm ấy, khi SG đã đi ngủ thì tổng thống Ford bắt tay hành động ở Washington. Những lời chỉ trích đã lên đến tột cùng, tất cả nhằm tố cáo Martin kéo dài lê thê cuộc di tản người Mỹ. Martin lập luận rằng việc di tản người Mỹ sẽ làm đất nước ấy hoảng loạn và làm chi sự đầu hàng trở thành không tránh khỏi được, nó sẽ làm chiến thắng của Cộng Sản nhanh hơn. Điều tệ hại nhất là có thể gây ra hoảng loạn ở SG, nếu đem so sánh thì ngay sự hoảng loạn ở Đà nẵng cũng chẳng thấm tháp gì...

Giờ đây, nhiều người Mỹ đang ló mặt khỏi cái tủ SG kín mít. Sứ quán tin rằng có lẽ khoảng 6.000 người Mỹ sẽ di tản nếu bắt đầu cuộc di tản vào giữa tháng tư. Nhưng khi cuộc tấn công thần tốc của Bắc Việt Nam đẩy mạnh thì ngày càng có nhiều công dân Mỹ xuất hiện. Nhiêug người là quân nhân về hưu. Họ chọn SG để sống vì nhiều lý do khác nhau, thường là do chuyện giá rượu rẻ và số lượng thiếu nữ quá thừa thãi. Những người khác là người Việt Nam nhập tịch Mỹ. Rồi lại còn thành phần đào ngũ nữa.

Chẳng ai biết có bao nhiêu người Mỹ bỏ trốn khỏi quân đội ở Nam Việt Nam. Con số điều tra đi đến ước lượng khoảng 300 bih sĩ. Số này sống tại SG, dùng mánh lới bỏ vợ bên Mỹ. Nhiều người dính líu đến chuyện buôn ma tuý và là tay buôn lẻ. Nhiều người khác đã xong được hộ chiếu và sống đàng hoàng. Giữa 15 và 28-4, 277 người đến trình diện tại các địa điẻm nhận di tản và cho biết họ là công dân Mỹ. Chẳng ai có giấy tờ trong mình, đều là người Âu da trắng, da đen, nói tiếng Anh giọng Mỹ.

Mệnh lệnh công khia của Ford là đem hết người Mỹ "không cần thiết" ra khỏi SG. Chẳng ai giải thích tại sao viên chức Mỹ "không cần thiết" lại có mặt ngay từ đầu làm gì và nhiều đến thế. Nó được ban hành không phải chỉ vì sự động tâm muốn cứu vớt sinh mạng mà vì đừng trông mong quốc hội bỏ phiếu viện trợ cho SG trừ phi hầu hết người Mỹ trong vùng chiến trận được mang đi nhanh chóng. Martin chẳng thích chuyện này, nhưng không ngăn cản được. Một viên chức cao cấp trong giới chức Mỹ ở Việt Nam sẽ làm việc để thực hiện kế hoạch.

Hai ngày sau khi Phan Rang sụp đổ, Martin vẫn chưa lấy lại được sức khỏe, vẫn còn bị hoành hành bởi bệnh sưng phổi đã mắc phải ở Hoa Kỳ. Trong điều kiện bình thường thì đại sứ đã phải nằm bệnh viện hoặc ít ra cũng nằm trên giường tại nhà. Nhưng bây giờ con bài đã ném ra, những quyết định quan trọng xẩy ra hàng ngày, gần như hàng giờ nên Martin khăng khăng đòi có mặt ở chỗ làm việc. Martin muốn nắm chặt sứ quán, đích thân làm ra mọi quyết định thường thường là bí mật.

Viên đại sứ miễn cưỡng thi hành lá thư của tổng thống Ford trong việc đẩy mạnh cuộc di tản người Mỹ ở Nam Việt Nam. Giống như một thuyền trưởng, ông ta ra lệnh cho đàn bà trẻ con đi trước rồi mới chấp thuận giảm bớt nhân viên sứ quán. Về quan hệ của Mỹ với Nam Việt Nam, Martin vẫn tin Thiệu là một tay tổng thống được dân bầu mặc dầu không phải là được dân ưa thích. Câu trả lời của Martin là dù thích hay không, Thiệu vẫn là tổng thống, tháng 10-1975 sẽ hết hạn, khi ấy cử tri có thể đuổi Thiệu khỏi vị trí. Martin quả là có nói chuyện với tay tổng thống này vài ba lần. Trong tuần lễ cuối cùng nắm giữ chức vụ, Thiệu ít kiếm được đồng bào nào của mình để dựa. Viên chức, chính trị gia, tướng lĩnh đều đòi uống máu Thiệu. Chỉ Martin là chỗ dựa và lời đe doạ của Martin sẽ cắt toàn bộ viện trợ của Mỹ mới làm các tướng lĩnh SG chùn tay làm đảo chính Thiệu.

Martin gặp Thiệu vào thời điểm Nghi bỏ Phan Rang vĩnh viễn để tim cách bơm hơi cho tay tổng thống trong khi chính thể xác ông ta chẳng khoẻ gì. Viên đại sứ đã nói Hoa Kỳ đặt trọn niềm tin ở Thiệu vì Thiệu là tổng thống dân cử của Nam Việt Nam. Martin khuyến khich Thiệu đừng từ chức. Martin nói trong hiện tại, Thiệu nên giữ cho vững. Mỹ vẫn cam kết với chính quyền Thiệu về sự tồn tại của "VNCH". Viện trợ Mỹ sẽ đến SG.

Thiệu lại nghĩ khác. Sứ quán Nam Việt Nam ở Mỹ cho Thiệu biết là khó có thêm viện trợ. Trong cuộc nói chuyện với Martin Thiệu đòi máy bay Mỹ nhảy vào cuộc chiến. Thiêụ nói với viên đại sứ rằng không có sự giúp đỡ của Mỹ thì Thiệu sẽ từ chức, "guốc bai ông Mỹ"

*

Cuộc tấn công thăm dò đầu tiên trong trận đánh cuối cùng và SG xảy đến ngày 18-4. Một toán đặc côngCộng Sản đã tấn công cứ điểm truyền tin Phú Lâm. Trên một khía cạnh Cộng Sản đã mang chiến tranh gần đến SG. Khía cạnh khác là các nhà quân sự đều cho rằng đó là cuộc tăm dò phòng thủ, thử phản ứng và di chuyển của quân đội SG.

Trực thăng vũ trang ở Tân Sơn Nhất đã phản ứng nhưng SG sẽ gặp khó khăn nếu trận đánh lớn xảy đến. Quân đội SG chỉ còn 1 lữ đoàn dù, đôi ba tiểu đoàn quân biệt động ở nội thành. Không quân chẳng còn mấy nữa. Các bộ tham mưu cố tái lập một số đơn vị nhưng chẳng tiến triển gì mấy. Các đơn vị khác còn ở tư thế nào đó để phòng thủ SG là:

- Sư đoàn 5, đóng ngay phía Bắc SG, bị xem là tác chiến không hữu hiệu, do nạn tham nhũng là suy yếu đơn vị không sửa chữa nổi.

- Sư đoàn 25 còn tệ hơn cả sư đoàn 5 đóng ở Bắc SG.

- Sư đoàn 9 khá hơn, nằm cách SG 25 dặm về phía Nam. Bộ Tổng tham mưu phá các tiền lệ ranh giới bất khả xâm phạm giữa các quân khu định cho sư đoàn 9 vượt lên quân khu 3. Một khu vực rộng lớn ở phần phía Bắc ĐBSCL bị bỏ ngỏ cho Cộng Sản. Các đơn vị Việt Cộng đi vào các làng mạc và nắm quyền kiểm soát mà không gặp sự chống đối nào. Cái thòng lọng đặt lên cổ SG đang xiết chặt dần, chẳng còn chỗ nào để Thiệu xoay xở gì nữa.

Martin trong khi bất tuân lệnh đẩy mạnh cuộc di tản thì lại xoay trần ra làm cái mà ông ta coi đấy là nhiệm vụ chính của mình. Đó là việc ngăn chặn sự hoảng loạn rõ ràng là đang lớn lên trong những mảng lớn dân chúng Việt Nam. Quân đội SG đã tháo chạy ở tất cả mọi nơi mà nó gặp phải thử thách, ngoại trừ Xuân Lộc nhưng cũng đang bị sưc ép nặng nề. Ít nhấy cũng là 100.000 bộ đội Cộng Sản, 10 sư đoàn bộ binh và lực lượng yểm trợ đang ở trong khoảng cách SG một hai ngày đường. SG được phòng thủ bởi các đơn vị bộ binh tồi mà hầu hết những người am hiểu đều tin rằng chúng sẽ co rut nhanh chóng sau phut đầu chạm súng.

Thiệu sẽ không từ chức, tay tổng thống này nói thế nhưng trên thực tế thì Thiệu đang suy yếu. Thiệu nói rằng sẽ không co thương lượng. Martin muốn Thiệu ở lại để tìm cách mặc cả. Cộng Sản đòi Thiệu cút đi và nói thẳng rằng nếu còn Thiệu thì sẽ tàn phá SG. Mỹ thì lo việc di tản. Phe Việt Nam thân Mỹ thì hoảng loạn, chẳng còn làm ăn được gì. Mọi người Việt Nam đều có khả năng gây thương tích cho Thiệu và chán Mỹ, muốn gút-bai người Mỹ. Sự căm ghét của họ đối với Thiệu quá sâu đậm rồi.

Nói cách khác, chiến tranh Việt Nam sắp đến hồi kết thúc.

 

Chương 11: "Người Mỹ các ông..."

Ba năm rưỡi qua, kể từ 20-12-1971, SG là hòn đảo kỳ quặc trong chiến tranh, không bị bom đạn đụng đến. Nó có và cách chiến trận 1.000 dặm nên không phải là chiến trường. Nhưng nó đang là chiến trường bởi vì SG là trung tâm của vùng chiến trận.

Khi Hà Nội bị B.52 tập kích thì SG chan hoà ánh nắng. Khi lính chết la liệt ở các tỉnh quanh nó thì SG bình yên. Đến tháng 4-1975, nó căng thẳng hơn đôi chut . Thế là biết cuộc chiến sắp kết thúc. Cộng Sản sắp sửa nhẩy lên chỗ ngồi của người cầm lái để làm chủ chiếc xe. Chiến tranh đang đến gần với SG, Tiếng nổ kho đạn ở Biên Hoà có thể nghe thấy được,

Cản trở duy nhât cho sự dàn xếp hoà bình trước khi khói lửa chiến tranh bốc lên ở SG được xem là Thiệu. Tiếng rít lên đòi thủ cấp chính trị của Thiệu vang động ngày chủ nhật tương đối yên tĩnh này. Ở mọi nơi "trừ văn phòng lầu ba ở toà đại sứ Hoa Kỳ" (văn phòng Martin), người ta đều chấp nhận là Thiệu phải đi thôi. Thiệu hết thời rồi. Tay tổng thống này còn ngồi đấy thì chiến tranh sẽ đến với SG.

Suốt ngày 20-4, Thiệu ngồi ở hầm trú bom dưới dinh Độc lập. Xế trưa thứ bẩy, một chiếc trực thăng đáp xuống sân cỏ của dinh. Từ trực thăng bước ra là tướng 4 sao Cao Văn Viên và tướng 3 sao Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh vùng 3 bao quanh SG. Gặp được Thiệu, Toàn đi ngay và trọng tâm: "Thưa tổng thống, cuộc chiến coi như xong" Toàn nói vậy.

Toàn nắm cuộc họp ấy, Toàn muốn Viên đi theo chỉ vì tay tổng thống này tin VIên hơn và Toàn muốn Viên làm một nhân chứng, Toàn bảo Thiệu là Phan Rang tiêu tan rồi, điều mà 3 ngày qua được giữ kín với Thiệu. Vĩnh Nghi đã bị bắt, Căn cứ không quân rơi vào tay Cộng Sản. Phan Thiết sụp đổ nhanh chóng. Chắc chắn Cộng Sản sẽ quay sang quốc lộ 1 để tràn xuống, không cần theo đường bờ biển đi vào SG.

Toàn nói cả chuyện gì đã xảy đến cho mồ mả gia đình Thiệu ở Ninh Chữ. Tay tổng thống này, tay chân vốn đã run rẩy, mặt mày trở nên trắng bệchkhi nghe Toàn nói điều đó. Toàn định ém chuyện này đi nhưng quá nhiều người đã biết chuyện. Nghi cũng đã đánh điện tín về Biên Hoà trước khi rời Phan Rang. Chuyện ủi sập mồ mả tổ tiên Thiệu là đầu đề trò chuyện ở sở chỉ huy của Toàn. Toàn nghĩ tôt hơn hết là nên nói thẳng tin này cho Thiệu biết hơn là để y nghe thiên hạ xầm xì.

Cả Viên và Toàn đều ngạc nhiên khi không thấy Thiệu nổi giận lôi đình. Viên nghĩ cách để nói rằng chuyện xảy ra là hậu quả hành động của Thiệu. Nhưng Thiệu đã quay đi bước vào phòng nghỉ, không buồn bảo Toàn và Viên về nghỉ. Hai viên tướng tự động bước ra ngoài. Đấy là chuyện của ngày thứ bẩy. Giờ đây là chủ nhật. Thiêụ đang ngồi im như tượng. Thiệu cũng không nói gì trong 24h qua ngoài câu dặn dò khôngtiếp ai cả. Nửa ngày thứ bẩy, cả ngày chủ nhật và sáng thứ hai Thiệu rút vào cô độc, không ăn uống gì mặc dầu tronghầm chứa nhiều thức ăn... Phòng báo chí vẫn loan baotóng thống sẽ dự lễ kỉ niệm Hùng Vương vào chiều thứ hai. 400 nhà báo nước ngoài vẫn chờ sẵn để quan sát tổng thống vào thời điểm khủng khoảng.

Cùng lúc ấy Lê Minh Đảo, chỉ huy sư đoàn 18 ở Xuân Lộc biết rằng thành phố kể như tiêu rồi. Đêm chủ nhật, sáng thứ hai, Cộng Sản đã chuyển quân vào để dứt điểm. Lữ đoàn dù SG đã sa lầy trong rừng cao su, trung đoàn dự bị của sư đoàn không hy vọng chọc thủng vòng vây nữa. Suốt đem, tỉnh lỵ bị pháo kích. Hoả lực tấn công của Cộng Sản còn hơn bất kỳ đơn vị bộ binh Mỹ mà Đảo đã biết. Tiền đồn xung quanh Xuân Lộc lần lượt sụp đổ.

Sau rạng đông, Đảo nói chuyện bằng điện đài với sở chỉ huy Biên Hoà. Biết là Toàn không có mặt tại đó, nhưng đã dặn lại truyền lệnh giữ Xuân Lộc càng lâu càng tôt. Không còn kiểu ra lệnh của Thiệu là giữ bằng mọi giá. Đến nửa buổi sáng thí sư đoàn 18 rõ ràng là tuyệt vọng. Xuân Lộc, biểu tượng tử thủ của quân đội SG sắp sụp đổ. Đảo ra lệnh rut bỏ vị trí và chạy.

Thiệu cũng bước ra khỏi hầm, tâm trạng âu sầu. Tay tổng thống quyết định rồi, sang phòng họp phía tây, lấy giấy but soạn thảo diễn văn. Thiệu muốn họp với tả hữu tin cậy không còn nửa tá và ra lệnh gọi Martin sau 1h nũa có mặt ở dinh tổng thống.

Các nhân viên quanh Thiệu nhanh chóng loan truyền tin Thiệu sắp từ chức. Một nhà báo Mỹ bèn gọi một cú điện đến hỏi Martin. Thế nhưng viên đại sứ lại hiểu tay tổng thống hoàn toàn trai ngược. Theo lời Martin, Thiệu có ý định ở lại chức vụ và đang chống cự với mọi nỗ lực tìm cách phế truất y. Qua truyền hình, Thiệu có ý định đòi hỏi bỏ phiếu tín nhiệm và Martin tiên đoán là Thiệu sẽ thắng.

Bài diễn văn của Thiệu nói trước đám viên chức là những lời lẽ quyết liệt. Nó được đưa lên truyền hình lúc 8h tối. Tay tổng thống noi "tình hình thật khẩn cấp", gần như phải rut lui đến dinh Độc Lập. Nếu người Mỹ chỉ cần can thiệp vào như họ đã hứa thì Nam Việt Nam đâu đến nỗi nào đang phai đương đầu với nguy cơ sắp mất thủ đô. Thiệu cả gan nói láo rằng cái gì đã xảy ra ở vùng cao nguyên là do quyết định của viên chỉ huy quân khu 2. Lệnh rut lui của cấp chỉ huy quân khu 2 tất yếu dẫn tới việc quân khu 1.

Khi Mỹ rut khỏi Nam Việt Nam năm 1973, quân đội SG mất 63% sức mạnh quân sự. Tay tổng thống ngừng nói, cắn môi rõ ràng là để cầm nước mắt. Thiệu nói: "Người Mỹ các ông... không chịu cho chúng tôi viện trợ mà các ông hứa hẹn. Tức là không ủng hộ chúng tôi nữa. Thế thì được rồi, tôi sẽ ra đi. Nếu người Mỹ không giúp đỡ Nam Việt Nam nữa hãy để họ ra đi, cút đi, hãy để họ nuốt hết những lời hứa của họ". Thiệu thay đổi giọng điệu nhanh chóng và tuyên bố từ chức.

Dân chúng thở phào nhẹ nhõm trước sự từ chức của Thiệu. Con người bị khinh miệt nhất trong đất nước đã bước xuống, chấm dứt nhu cầu đảo chính, nhưng khả năng thương lượng vẫn mong manh. Chẳng có cách gì để lấy lại đất đã mất. Ít ai cảm thấy quân đội Sài Gòn có thể bảo vệ nổi phần còn lại của Nam Việt Nam. Vậy mà định thương lượng tức là sẵn sàng quỳ xuống để đối phương nhổ nước bọt vào mặt.

Bộ đội Bắc Việt Nam tiếp tục đổ xuống theo các quốc lộ hướng về Sài Gòn, sư đoàn nối tiếp sư đoàn, đặc biệt ở phía Bắc và Tây Bắc xuống. Trong phần lớn đoạn đường, họ ngồi trên xe tải và xe tăng. Một chố giao lưu quan trọng là Đồng Xoài, cách Sài Gòn 35 dặm về phía Bắc. Tại đây, điểm giao nhau giữa các cánh quân xuất phát từ đường mòn Hồ Chí Minh, từ vùng biên giới Campuchia, từ vùng Đông Bắc, nơi các sư đoàn chiến thắng ở cao nguyên, Đà Nẵng và Nha Trang đổ về Sài Gòn. Xe vận tải nối tiếp nhau đi ngang qua Đồng Xoài, nơi trước đây có một trại lính mũ nồi xanh của Mỹ, đã bị tràn ngập. Các loại xe chuyên môn cũng đã quá nhiều, không thể đếm được. Chúng chở cầu, kéo pháo, chở xăng cho xe tăng và các loại xe khác

Một công-voa kéo dài 3 ngày xuất phát từ các dãy núi. Nó được gọi là Trường Sơn, đặt theo tên vùng cao nguyên mà nó đi ngang qua. Công-voa hầu hết là xe vận tải mới của Bắc Việt Nam mà theo như những người lái chúng cho biết là mang đủ đạn cho trận đánh một tháng.

Cuộc vây hãm Sài Gòn đang được dựng lên. Từ Đồng Xoài, hàng trăm xe tải thẳng hướng Tây, tiến về Tây Ninh, Bình Dương. Những chiếc khác đi thẳng hướng Đông theo quốc lộ 1đến Biên Hoà. Hàng trăm chiếc khác xuôi những con đường ít ai biết đến để ra Vũng Tàu và bờ biển. Vòng vây đặt quanh Sài Gòn không phải là một vòng tròn nhưng toàn vẹn và chặt chẽ. Thậm chí cả về phía Nam, nơi còn một chút kiểm soát của quân đội Sài Gòn, Cộng Sản vẫn đang đi vào vị trí để vây bọc và cắt đứt liên hệ giữa vùng châu thổ với Sài Gòn. Máy bay của không quân phần lớn chẳng có thể tìm ra các công-voa. Giả dụ dân chúng tìm ra thì cũng chẳng đủ máy bay, rồi dù có máy bay cũng chẳng có phi công nào liều chết bay đi khi đã nhan nhản tin đồn về loại tên lửa phòng không vác vai tuyệt diệu SA.7 xuất hiện trong đội hình các đoàn quân ấy.

Trong tầm pháo của Sài Gòn, bộ đội công binh Cộng Sản đặt một chiếc cầu trong vòng không đầy một ngày. Với nó, hàng tá xe tăng, đại bác hạng nặng và mấy chục xe vận tải vượt sông Đồng Nai để tấn công Sài Gòn từ hướng Tây. Khoảng chừng hơn10 sư đoàn đã bao quanh Sài Gòn và nằm im chờ lệnh tấn công. Nửa tá các sư đoàn khác đang đứng sau lưng họ, sẵn sàng bổ xung cho tuyến xung phong. Về phía Bắc và Đông Bắc, Cộng Sản ở trong vòng 20 dặm đối với thủ đô. Về phía Đông, họ cách chừng 30 dặm. về phía Tây và Tây Nam, sau khi Thiệu từ chức, Cộng Sản đang thay đổi đội hình nhưng cũng chỉ cách Sài Gòn vào khoảng 30-35 dặm.

Đến ngày 26-4, Sài Gòn là mục tiêu nằm trong tình thế đợi phía bên kia bấm nút. “Người Mỹ các ông” lừng khừng không di tản sao được nữa.