Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2008

55 ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ Alan Dawson Chương 9 10 11

Chương 9 : Kẻ cầm đầu chế độ

Hai ngày sau khi Phan Rang sụp đổ, tỉnh lỵ anh em với nó là Phan Thiết cũng bị Bắc Việt Nam chiếm nốt. Thế là Cộng Sản kiểm soát 20 tỉnh, trọn vẹn 2 quân khu, hai phần ba Nam Việt Nam rồi. Ở Sài Gòn, các thế lực đều đòi thủ cấp chính trị của Thiệu, kẻ cầm đầu chế độ.

Phe tự nhận là trung lập của Sài Gòn, không thích Cộng Sản và không thích chống + cũng muốn Thiệu ra đi. Phe cực hữu cũng muốn Thiệu ra đi, và éo le thay, chính họ lại công khai tấn công vào sự tham nhũng của tổng thống.

Từ tháng 9-1974, nhóm này đã phổ biến “bản cáo trạng số 1”. Các nhật báo Sài Gòn đăng cáo trạng này đều bị tịch thu nhưng vẫn còn rất nhiều bản được chuyền tay trong dân chúng khắp đất nước. Những lời tố cáo đó mang tính chất nghiêm trọng và có giá trị tài liệu.

Thiệu, với lợi tức chỉ vài trăm đôla hàng tháng mà có hai căn nhà ở Sài Gòn, trị giá hơn 150 nghìn đôla, một nhà thuỷ tạ ở sát phía Bắc Sài Gòn, một “vila tráng lệ” ở Thuỵ Sĩ, nhiều đất đai ở vô số tỉnh. Vợ Thiệu xây cái gọi là bệnh viện cho người nghèo, đã dùng hàng lậu thuế để trang trải việc xây dựng, bòn rút ngoại viện vào túi và kết cục thì dân nghèo không thể vào bệnh viện này. Anh vợ Thiệu thì đầu cơ nâng giá phân bón hóa học do Mỹ cung cấp, bán cho nông dân với giá cắt cổ. Cố vấn cho Thiệu là Đặng Văn Quang và Trần Thiện Khiêm tổ chức buôn thuốc phiện lậu. Một người cô của Thiệu tích trữ đầu cơ và nâng giá gạo, thâu tóm nhiều phương tiện vận tải để làm giàu. Thiệu còn “nhận quà” bằng đất đai, dùng công binh xây trang trại riêng…

Những lời tố cáo như bom nổ. Tuy bản cáo trạng thứ hai không gây náo động như bản cáo trạng thứ nhất, nhưng lại được dư luận rộng rãi tin. Thế là những người cánh hữu cương quyết đòi uống máu Thiệu về mặt chính trị. Còn ở mức độ rộng lớn, quân đội Sài Gòn muốn Thiệu ra đi vào tuần thứ nhì của tháng 4-1975. Đây là lá phiếu quan trọng nhất chống lại tổng thống. Sau 10 năm ở chức vụ cao nhất tại Nam Việt Nam trong đó 8 năm làm tổng thống, năm 1975 Thiệu là người giàu nhất Nam Việt Nam nhờ tham nhũng. Trong chức vụ, Thiệu không hề được phép nhận hơn số lương 600 đôla mỗi tháng, và có lẽ từ 300 đến 400 đôla phụ cấp. Thế nhưng dù xét bất cứ tiêu chuẩn nào, thì Thiệu đã và vẫn còn giàu sụ.

Làm thế nào giàu được, đó là chuyện phức tạp và quanh co. Những gì sắp kể ra đây chắc chắn là không đủ. Cái biết được là với hai trường hợp ngoại lệ-một vila ở Thuỵ Sĩ và một ngân hàng Sài Gòn bị phá sản-còn tên thì cả Thiệu lẫn tên vợ Thiệu đều không tim thấy trong bất cứ hồ sơ nào. Thế mà họ đã trở nên giàu có. Theo các cuộc phỏng vấn và các nguồn điều tra khác thì gia đình Thiệu đã ăn cắp hàng trăm triệu đôla. Đó là tiền thuế của dân Mỹ và dân chúng đất nước họ.

Công cuộc làm tiền của Thiệu là dựa trên chiến tranh và môi trường cuộc chiến do viện trợ Mỹ nuôi dưỡng. Có lẽ Thiệu thành thật tin rằng không bao giờ thương lượng được với Cộng Sản. Thiệu tin như vậy nên cuộc chiến tiếp tục. Bởi vì cuộc chiến tiếp diễn nên Thiệu và gia đình Thiệu giàu thêm. Ở hạ tầng, sự tham nhũng đơn giản. Nhưng ở thượng tầng, nó là một mạng lưới phức tạp. Cũng như đảng maphia, nó lấy việc bảo vệ tay thủ lĩnh làm mục đích chính.

Ở hạ tầng, nó là sự mua bán thế lực vụn vặt, bảo vệ và tống tiền. Một tiệm thuốc đường Catinat bán công khai thuốc cần sa nha phiến cho lính Mỹ vì chủ tiệm được cảnh sát bảo vệ. Các chỉ huy Mỹ cấm lính tới đó vì thuốc ma tuý được chuyển qua gái bán bar. Những tay buôn gỗ ở Tây Nguyên hoạt động được vì các cấp chỉ huy quân đội được trả một số phần trăm lợi nhuận. Tiền lời ngừng trả thì đoàn xe trở gỗ bị phục kích bởi "du kích Việt Cộng"

Khi tham nhũng trở nên quan trọng và số tiền dính líu nhiều hơn thì hệ thống trở thành một mạng lưới hình tháp. Ngồi trên đỉnh tháp tham nhũng tại Nam Việt Nam là Thiệu. Tháp chỉ là công cụ tổ chưc không nhất thiết là con đường chuyển tiền. Bằng cách cho những người xung quanh cái tháp ấy tự kiếm ăn, Thiệu tạo được ân nghĩa và những món nợ quyền lực. Từ 1965 - 1975, y đã tạo hàng ngàn hoặc hàng vạn ơn nghĩa. Khi cần đền đáp thì lớn bé trong cái tháp ấy răm rắp tuân theo.

Phải hiểu rằng ở Nam Việt Nam, dù hiến pháp có được tuân theo triệt đểthì tổng thống vẫn có quyền lực bao la. Thiệu có quyền nhiều hơn cả hiến pháp cho phép. Là chủ tịch hội đồng tướng lĩnh, một cơ quan nằm ngoài hiến pháp, Thiệu nắm quyền hành trưởng hội đòng này. Là tổng tư lệnh quân đội, đứng đầu tổ chức hành chính công vụ, một tay Thiêuh nắm hơn 3 triệu chỗ làm, một nửa chỗ công ăn việc làm của chế độ. Thiệu giữ toàn quyền bổ nhiêm thăng thưởng, giáng và cách chức 3 triệu người giữ các chỗ làm ấy, không uỷ nhiệm cho ai.

Tiền bạc tuồn lọt từ cao xuống thấp và ngược lại. Mỗi cấp rut bớt phần ra để chia xẻ cho họ. Đó là hoạt động của đường dây tham nhũng. Nhưng hình như Thiệu không thèm làm. Tiền hậu tạ của chủ hiệu Bar, kiều dân nhập cư bất hợp pháp... không đến tay Thiệu. Y thu lượm ân nghĩa và dùng ơn nghĩa giúp tay tổng thống này lám giầu theo các kế hoạch riêng. Phương pháp thu lượm ơn nghĩa được G. Lansdale mô tả như sau:

"... Guồng máy dân sự và quân sự hoạt động theo một chế độ chủ nhân xoay quanh mỗi tư lệnh quân đoàn. Mỗi người đã bổ nhiệm và cách chức một tỉnh trưởng, quận trưởng". Năm 1975, Thiệu bổ nhiệm và cách chức thường xuyên 4 tư lệnh quân đoàn, nắm phần lớn lớn việc bổ nhiệm tư lệnh sư đoàn, như vậy là còn nắm quyền kiểm soát nhiều hơn cái chế độ mà Lansdale đã nói trong năm 1958. Một thí dụ đặc biệt cho thấy cách thứ hoạt động của Thiệu. Năm 1973 y thăng cấp lên tướng 3 sao cho Nguyễn Vĩnh Nghi và bổ nhiệm Nghi làm tư lệnh quân đoàn 4, tức là Nam Bộ. Nghi được tự do xoay xở làm giầu. Vào giữa nam 74, các nguồn tin sứ quán Hoa Kỳ nói rằng 8.000 điện đài và 25.000 khẩu súng M.16 và vũ khí nhỏ khac đã biến mât khỏi kho quân khu 4 trong thời gian Nghi làm tư lệnh. Bản cáo trạng số 1 buộc Thiệu có hành động tượng trưng để dẹp tham nhũng, thì tay tổng thống đã phải cách chưc Nghi. Hai tướng lĩnh khac thuộc quân khu 3 đã bị nhôt năm 1974 khi những người đi điều tra của cả quân đội SG lẫn sứ quán Hoa Kỳ nói là tụi này đã cố tình bán gạo cho Việ Cộng. Hai người đó là Trần Quốc Lịch của sư đoàn 25 Tây Bắc SG và Lê Văn Tư của sư đoàn 5 ở hướng Bắc thủ đô. Việc bán lương thực và trang bị quân sự cũng như giấy hoãn quân dịch trong 2 sư đoàn đã làm hai đơn vị này về mặt tác chiến trở nên vô hiệu lực. Đến lúc chúng buộc phải ném vào trận đánh ở SG tháng 4-1975 thì sư đoàn 25 đã không thể nào hành quân như lực lượng chiến đấu.

Những bổ nhiệm vào hàng tá chức vụ như thế là do Thiệu làm ra, với cách tính toán là tạo ra ơn nghĩa để dùng sau này. Một viên tướng được Thiệu bổ nhiệm là có thể tự do xây dựng mạng lưới tham nhũng riêng của mình. Kiếm tiền bằng cách ghi vào sổ lương sư đoàn những lính ma. Bán những chỗ làm việc an toàn tránh xa chiến trường cho binh sĩ nào muốn và đủ sưc trả cái giá đưa ra. Bán trang bị dành cho đơn vị ra chợ trời, thậm chí bán cả cho Việt cộng. Họ cố tránh bán vũ khí sợ Mỹ biêtthí phải mở cuộc điều tra, còn đồ dùng nhà ăn tập thể, quân phục, xe Jeep, giầy cao cổ thì mang lại nhiều tiền và các mặt hàng này tràn trề ngoài chợ trời chứng tỏ các sĩ quan cao cấp phải nhúng tay vào. Xăng trở thành mặt hàng đắt khách ở chọ trời sau khi khối Ả rập nâng giá. Một số tướng lĩnh SG rỗ ràng đã điều khiển các đường dây, bảo vệ đám con buôn chợ trời và buôn lậu.

Họ làm tiền thế nào, Thiệu không cần để ý. Chỉ có quy định ngầm là phải tránh các đường dây do tay tổng thống này và gia đình điều khiển. Thiệu côt tạo ơn nghiã và ta sẽ xem ân nghĩa được đáp trả như thế nào?

Tướng lĩnh do Thiêubổ nhiệm có quyền bổ nhiệm cấp thuộc hạ của mình. Ở đây, tiền mặt được trao tay. Chỗ làm cao giá nhất là chỉ huy trưởng cảnh sát Chợ Lớn, khu người Hoa. Chức vị đó khoảng 15 triệu tức khoảng 130.000 đô la. Chỗ này dễ kiếm tiền đến nỗi chỉ sau 2-3 tháng là đủ tiền trả chỗ. Các đại tá quân đội phải mua 80.000 đô la nếu muốn làm tỉnh trưởng Châu Đốc, giáp biên giới với Cambodia. Nguồn thu chính là qua các tay buôn lậu trâu bò, tiền lời đến theo đầu súc vật qua biên giới.

Đi dần lên trong các cấp chính quyền, hầu hết các bộ trưởng đã xoay xở làm giầu bằng tham nhũng. Điển hình là Phạm Kim Ngọc, bộ trưởng kinh tế được Mỹ thích, đã xoay xở mở được trương mục 8 triệu đô la ở Đài Loan bằng cách lấy "tiền hoa hồng" do việc đảm bảo những hợp đồng của các công ty muốn làm ăn ở Việt Nam.

Nhưng so chuyện Thiệu và gia đình tay tổng thống này làm thì các chuyện trên không đáng kể. hai người làm tấm che gió án ngữ sự tham nhũng hàng triệu đô la cho Thiệu là Nguyễn Thị Mai Anh, vợ thiệu và Lý Long Thân, tên chồng người Hoa của cô em gái nuôi Mai Anh. Những số tiền lớn từ đó đi vào các trương mục ngân hàng của Thiệu ở Singapore, Thuỵ Sĩ, chia lời thầm lặng ở Đài Loan, Guam, Hawai vv...

Những dính líu của Mai anh khó xac lập thành hồ sơ. Mụ ta là một tay mê say kim cương có tiếng. Trong các cuộc chiêu đãi, mụ ta bàn bạc về kim cương một cách thông thạo với các mệnh phụ trong đoàn ngoại giao và khách mời. Mai Anh thường đeo một viên kim cương lớn khi đi ra ngoài và luân chuyển các nữ trang kim cương thành sưu tập lớn. Theo một số người thì mụ ta có một bộ sưu tập về kim cương hạng nhất châu Á, cả về số lưọng lẫn chất lượng.

Nguồn thu nhập quan trọng của Thiệu là buôn lậu, cả trong lẫn ngoài Việt Nam. Kim lọai vụn: đồng, sắt, đặc biệt đồng là món hàng xuất khẩu béo bở nhất. Đồng là phần còn lại của những viên đạn và đại bác bắn đi. Sắt là tàn tích của xe tăng, xe vận tải và máy bay bị hư hại trong chiến tranh. Kim loại vụn lúc đó là mặt hàng được giá trên mọi thj trường, đặc biệt tại Nhật vì giá thép tăng cao. Một triệu lính bắn biết bao đạn dược. Họ dùng hỏng bao nhiêu xe tăng, xe vận tải, xe jeep, máy bay, điện đài, máy đánh chữ. Trong lúc rut đi, nó bị bỏ lại ở chiến trường, được thu gọn về các kho sắt vụn và bắt đầu cuộc đời mới là vật làm ra tiền cho Thiệu.

Bản thân việc buôn lậu thì đơn giản, cần it người nhúng tay. Kẻ nào nhúng tay đều mang ơn nghĩa của Thiệu. Chính vào giai đoạn này của cuộc làm ăn, tay tổng thống này mới gọi đến những tướng tá vốn mắc nợ Thiệu về chức vụ mang ân nghĩa đến. Trả ơn thật đơn giản. Các anh hãy quay mặt đi đúng lúc và ra lệnh cho thuộc hạ cũng làm như thế.

Kim loại phế thải trở bằng xe nhà binh, phủ bạt kín để tránh các cặp mắt tò mò. Điểm trở hàng đến thường là cẳng SG. Tay tổng thống cũng dễ dàng đòi các viên chức ở đây quay mặt đi chỗ khác. Tầu chở thuê đăng ký quốc tịch Panama, thuỷ thủ là người Nam Triều Tiên. Ra đến biển khơi thì các tay tài phiệt Mỹ mới nhúng tay vào.

Mai Anh đích thân lo việc lấy tiền hàng. Lý Long Thân thì sắp xếp các chi tiết tẩy xoá sự tham nhũng ở các ngân hàng Đài Loan, Hongkong, Singapore, Philipin, Guam. Mai Anh thỉnh thoảng dùng lý do che đậy là đi thăm con ở châu Âu để bỏ tiền vào ngân hàng hay biến nó thành đồ nữ trang. Trong một chuyến đi như vậy năm 1972, Mai Anh đã mua một villa ở Thuỵ Sĩ.

Việc buôn lậu ra nước ngoài đáng trách nhưng it gây hậu quả cho cuộc chiến. Buôn lậu trong nước gây chết chóc, kéo dài chiến tranh và giúp sức trực tiếp cho Việt Cộng. Hàng không Việt Nam (Air Vietnam) từ SG bay đến 11 thành phố châu Á nằm dưới quyền điều khiển của Trung. Con trai Trung là chồng con gái Thiệu. Các khoang chứa hàng của máy bay E Vietnam (Air Vietnam) từ Tokyo, Hongkong, Singapore về đều chất đầy hàng. Rượu, thuốc lá, son phấn, hàng điện tử, cúc áo, đồ dùng phòng ăn... hầu hết những thứ nhét lọt qua khoang chở hàng đều có mặt trên các chuyến bay phản lực về Việt Nam, được biết là đều theo chỉ thj của vợ Thiệu. Hàng về, binh sĩ SG bao quanh máy bay đông nghẹt. Họ bốc xuống xe nhà binh những thùng rượu Pháp, hàng Nhật, Hongkong trước con mắt của khách nhìn qua cửa sổ.

Sự tham nhũng của Thiệu đặc biệt có hại cho Nam Việt Nam kể rừ 1972 trở đi, khi Nam Việt Nam chệnh choạng trên bờ vực phá sản. Viện trợ của Mỹ giảm, giá hàng lại tăng. Thiệu, đám bạn bè và gia đình tay tổng thống mỗi ngày một giầu. Dân chúng thì mất niềm tin ở tổng thống của họ. Đến giữa tháng tư, khi Thiệu bước sang năm thứ 10 làm quốc trưởng Nam Việt Nam thì sức ép đãquá lớn rồi. Vấn đề không còn là Thiệu có ra đi hay không mà phải ra đi và như thế nào.

Chỉ có Graham Martin là không muốn Thiệu ra đi. Theo lời một số người trong đám thân tín của viên đại sứ thì Martin cho rằng "Thiệu là tổng thống duy nhất mà chúng ta (Mỹ) có thể kiếm được". Cái mà Martin hy vọng là Thiệu chịu thương lượng với Hà Nội để tìm kiếm hoà bình. Martin đã mất không biết bao thời gian để thuyết phục Thiệu. Như vậy thì buộc Thiệu phải quỳ xuống van xin thương lượng để Hà Nội và Việt Cộng nhổ nước bọt vào mặt mình. Thiệu không chịu và chiến tranh cứ kéo dài.

 

Chương 10: "Guốc bai - ông Mỹ"

Đêm ấy, khi SG đã đi ngủ thì tổng thống Ford bắt tay hành động ở Washington. Những lời chỉ trích đã lên đến tột cùng, tất cả nhằm tố cáo Martin kéo dài lê thê cuộc di tản người Mỹ. Martin lập luận rằng việc di tản người Mỹ sẽ làm đất nước ấy hoảng loạn và làm chi sự đầu hàng trở thành không tránh khỏi được, nó sẽ làm chiến thắng của Cộng Sản nhanh hơn. Điều tệ hại nhất là có thể gây ra hoảng loạn ở SG, nếu đem so sánh thì ngay sự hoảng loạn ở Đà nẵng cũng chẳng thấm tháp gì...

Giờ đây, nhiều người Mỹ đang ló mặt khỏi cái tủ SG kín mít. Sứ quán tin rằng có lẽ khoảng 6.000 người Mỹ sẽ di tản nếu bắt đầu cuộc di tản vào giữa tháng tư. Nhưng khi cuộc tấn công thần tốc của Bắc Việt Nam đẩy mạnh thì ngày càng có nhiều công dân Mỹ xuất hiện. Nhiêug người là quân nhân về hưu. Họ chọn SG để sống vì nhiều lý do khác nhau, thường là do chuyện giá rượu rẻ và số lượng thiếu nữ quá thừa thãi. Những người khác là người Việt Nam nhập tịch Mỹ. Rồi lại còn thành phần đào ngũ nữa.

Chẳng ai biết có bao nhiêu người Mỹ bỏ trốn khỏi quân đội ở Nam Việt Nam. Con số điều tra đi đến ước lượng khoảng 300 bih sĩ. Số này sống tại SG, dùng mánh lới bỏ vợ bên Mỹ. Nhiều người dính líu đến chuyện buôn ma tuý và là tay buôn lẻ. Nhiều người khác đã xong được hộ chiếu và sống đàng hoàng. Giữa 15 và 28-4, 277 người đến trình diện tại các địa điẻm nhận di tản và cho biết họ là công dân Mỹ. Chẳng ai có giấy tờ trong mình, đều là người Âu da trắng, da đen, nói tiếng Anh giọng Mỹ.

Mệnh lệnh công khia của Ford là đem hết người Mỹ "không cần thiết" ra khỏi SG. Chẳng ai giải thích tại sao viên chức Mỹ "không cần thiết" lại có mặt ngay từ đầu làm gì và nhiều đến thế. Nó được ban hành không phải chỉ vì sự động tâm muốn cứu vớt sinh mạng mà vì đừng trông mong quốc hội bỏ phiếu viện trợ cho SG trừ phi hầu hết người Mỹ trong vùng chiến trận được mang đi nhanh chóng. Martin chẳng thích chuyện này, nhưng không ngăn cản được. Một viên chức cao cấp trong giới chức Mỹ ở Việt Nam sẽ làm việc để thực hiện kế hoạch.

Hai ngày sau khi Phan Rang sụp đổ, Martin vẫn chưa lấy lại được sức khỏe, vẫn còn bị hoành hành bởi bệnh sưng phổi đã mắc phải ở Hoa Kỳ. Trong điều kiện bình thường thì đại sứ đã phải nằm bệnh viện hoặc ít ra cũng nằm trên giường tại nhà. Nhưng bây giờ con bài đã ném ra, những quyết định quan trọng xẩy ra hàng ngày, gần như hàng giờ nên Martin khăng khăng đòi có mặt ở chỗ làm việc. Martin muốn nắm chặt sứ quán, đích thân làm ra mọi quyết định thường thường là bí mật.

Viên đại sứ miễn cưỡng thi hành lá thư của tổng thống Ford trong việc đẩy mạnh cuộc di tản người Mỹ ở Nam Việt Nam. Giống như một thuyền trưởng, ông ta ra lệnh cho đàn bà trẻ con đi trước rồi mới chấp thuận giảm bớt nhân viên sứ quán. Về quan hệ của Mỹ với Nam Việt Nam, Martin vẫn tin Thiệu là một tay tổng thống được dân bầu mặc dầu không phải là được dân ưa thích. Câu trả lời của Martin là dù thích hay không, Thiệu vẫn là tổng thống, tháng 10-1975 sẽ hết hạn, khi ấy cử tri có thể đuổi Thiệu khỏi vị trí. Martin quả là có nói chuyện với tay tổng thống này vài ba lần. Trong tuần lễ cuối cùng nắm giữ chức vụ, Thiệu ít kiếm được đồng bào nào của mình để dựa. Viên chức, chính trị gia, tướng lĩnh đều đòi uống máu Thiệu. Chỉ Martin là chỗ dựa và lời đe doạ của Martin sẽ cắt toàn bộ viện trợ của Mỹ mới làm các tướng lĩnh SG chùn tay làm đảo chính Thiệu.

Martin gặp Thiệu vào thời điểm Nghi bỏ Phan Rang vĩnh viễn để tim cách bơm hơi cho tay tổng thống trong khi chính thể xác ông ta chẳng khoẻ gì. Viên đại sứ đã nói Hoa Kỳ đặt trọn niềm tin ở Thiệu vì Thiệu là tổng thống dân cử của Nam Việt Nam. Martin khuyến khich Thiệu đừng từ chức. Martin nói trong hiện tại, Thiệu nên giữ cho vững. Mỹ vẫn cam kết với chính quyền Thiệu về sự tồn tại của "VNCH". Viện trợ Mỹ sẽ đến SG.

Thiệu lại nghĩ khác. Sứ quán Nam Việt Nam ở Mỹ cho Thiệu biết là khó có thêm viện trợ. Trong cuộc nói chuyện với Martin Thiệu đòi máy bay Mỹ nhảy vào cuộc chiến. Thiêụ nói với viên đại sứ rằng không có sự giúp đỡ của Mỹ thì Thiệu sẽ từ chức, "guốc bai ông Mỹ"

*

Cuộc tấn công thăm dò đầu tiên trong trận đánh cuối cùng và SG xảy đến ngày 18-4. Một toán đặc côngCộng Sản đã tấn công cứ điểm truyền tin Phú Lâm. Trên một khía cạnh Cộng Sản đã mang chiến tranh gần đến SG. Khía cạnh khác là các nhà quân sự đều cho rằng đó là cuộc tăm dò phòng thủ, thử phản ứng và di chuyển của quân đội SG.

Trực thăng vũ trang ở Tân Sơn Nhất đã phản ứng nhưng SG sẽ gặp khó khăn nếu trận đánh lớn xảy đến. Quân đội SG chỉ còn 1 lữ đoàn dù, đôi ba tiểu đoàn quân biệt động ở nội thành. Không quân chẳng còn mấy nữa. Các bộ tham mưu cố tái lập một số đơn vị nhưng chẳng tiến triển gì mấy. Các đơn vị khác còn ở tư thế nào đó để phòng thủ SG là:

- Sư đoàn 5, đóng ngay phía Bắc SG, bị xem là tác chiến không hữu hiệu, do nạn tham nhũng là suy yếu đơn vị không sửa chữa nổi.

- Sư đoàn 25 còn tệ hơn cả sư đoàn 5 đóng ở Bắc SG.

- Sư đoàn 9 khá hơn, nằm cách SG 25 dặm về phía Nam. Bộ Tổng tham mưu phá các tiền lệ ranh giới bất khả xâm phạm giữa các quân khu định cho sư đoàn 9 vượt lên quân khu 3. Một khu vực rộng lớn ở phần phía Bắc ĐBSCL bị bỏ ngỏ cho Cộng Sản. Các đơn vị Việt Cộng đi vào các làng mạc và nắm quyền kiểm soát mà không gặp sự chống đối nào. Cái thòng lọng đặt lên cổ SG đang xiết chặt dần, chẳng còn chỗ nào để Thiệu xoay xở gì nữa.

Martin trong khi bất tuân lệnh đẩy mạnh cuộc di tản thì lại xoay trần ra làm cái mà ông ta coi đấy là nhiệm vụ chính của mình. Đó là việc ngăn chặn sự hoảng loạn rõ ràng là đang lớn lên trong những mảng lớn dân chúng Việt Nam. Quân đội SG đã tháo chạy ở tất cả mọi nơi mà nó gặp phải thử thách, ngoại trừ Xuân Lộc nhưng cũng đang bị sưc ép nặng nề. Ít nhấy cũng là 100.000 bộ đội Cộng Sản, 10 sư đoàn bộ binh và lực lượng yểm trợ đang ở trong khoảng cách SG một hai ngày đường. SG được phòng thủ bởi các đơn vị bộ binh tồi mà hầu hết những người am hiểu đều tin rằng chúng sẽ co rut nhanh chóng sau phut đầu chạm súng.

Thiệu sẽ không từ chức, tay tổng thống này nói thế nhưng trên thực tế thì Thiệu đang suy yếu. Thiệu nói rằng sẽ không co thương lượng. Martin muốn Thiệu ở lại để tìm cách mặc cả. Cộng Sản đòi Thiệu cút đi và nói thẳng rằng nếu còn Thiệu thì sẽ tàn phá SG. Mỹ thì lo việc di tản. Phe Việt Nam thân Mỹ thì hoảng loạn, chẳng còn làm ăn được gì. Mọi người Việt Nam đều có khả năng gây thương tích cho Thiệu và chán Mỹ, muốn gút-bai người Mỹ. Sự căm ghét của họ đối với Thiệu quá sâu đậm rồi.

Nói cách khác, chiến tranh Việt Nam sắp đến hồi kết thúc.

 

Chương 11: "Người Mỹ các ông..."

Ba năm rưỡi qua, kể từ 20-12-1971, SG là hòn đảo kỳ quặc trong chiến tranh, không bị bom đạn đụng đến. Nó có và cách chiến trận 1.000 dặm nên không phải là chiến trường. Nhưng nó đang là chiến trường bởi vì SG là trung tâm của vùng chiến trận.

Khi Hà Nội bị B.52 tập kích thì SG chan hoà ánh nắng. Khi lính chết la liệt ở các tỉnh quanh nó thì SG bình yên. Đến tháng 4-1975, nó căng thẳng hơn đôi chut . Thế là biết cuộc chiến sắp kết thúc. Cộng Sản sắp sửa nhẩy lên chỗ ngồi của người cầm lái để làm chủ chiếc xe. Chiến tranh đang đến gần với SG, Tiếng nổ kho đạn ở Biên Hoà có thể nghe thấy được,

Cản trở duy nhât cho sự dàn xếp hoà bình trước khi khói lửa chiến tranh bốc lên ở SG được xem là Thiệu. Tiếng rít lên đòi thủ cấp chính trị của Thiệu vang động ngày chủ nhật tương đối yên tĩnh này. Ở mọi nơi "trừ văn phòng lầu ba ở toà đại sứ Hoa Kỳ" (văn phòng Martin), người ta đều chấp nhận là Thiệu phải đi thôi. Thiệu hết thời rồi. Tay tổng thống này còn ngồi đấy thì chiến tranh sẽ đến với SG.

Suốt ngày 20-4, Thiệu ngồi ở hầm trú bom dưới dinh Độc lập. Xế trưa thứ bẩy, một chiếc trực thăng đáp xuống sân cỏ của dinh. Từ trực thăng bước ra là tướng 4 sao Cao Văn Viên và tướng 3 sao Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh vùng 3 bao quanh SG. Gặp được Thiệu, Toàn đi ngay và trọng tâm: "Thưa tổng thống, cuộc chiến coi như xong" Toàn nói vậy.

Toàn nắm cuộc họp ấy, Toàn muốn Viên đi theo chỉ vì tay tổng thống này tin VIên hơn và Toàn muốn Viên làm một nhân chứng, Toàn bảo Thiệu là Phan Rang tiêu tan rồi, điều mà 3 ngày qua được giữ kín với Thiệu. Vĩnh Nghi đã bị bắt, Căn cứ không quân rơi vào tay Cộng Sản. Phan Thiết sụp đổ nhanh chóng. Chắc chắn Cộng Sản sẽ quay sang quốc lộ 1 để tràn xuống, không cần theo đường bờ biển đi vào SG.

Toàn nói cả chuyện gì đã xảy đến cho mồ mả gia đình Thiệu ở Ninh Chữ. Tay tổng thống này, tay chân vốn đã run rẩy, mặt mày trở nên trắng bệchkhi nghe Toàn nói điều đó. Toàn định ém chuyện này đi nhưng quá nhiều người đã biết chuyện. Nghi cũng đã đánh điện tín về Biên Hoà trước khi rời Phan Rang. Chuyện ủi sập mồ mả tổ tiên Thiệu là đầu đề trò chuyện ở sở chỉ huy của Toàn. Toàn nghĩ tôt hơn hết là nên nói thẳng tin này cho Thiệu biết hơn là để y nghe thiên hạ xầm xì.

Cả Viên và Toàn đều ngạc nhiên khi không thấy Thiệu nổi giận lôi đình. Viên nghĩ cách để nói rằng chuyện xảy ra là hậu quả hành động của Thiệu. Nhưng Thiệu đã quay đi bước vào phòng nghỉ, không buồn bảo Toàn và Viên về nghỉ. Hai viên tướng tự động bước ra ngoài. Đấy là chuyện của ngày thứ bẩy. Giờ đây là chủ nhật. Thiêụ đang ngồi im như tượng. Thiệu cũng không nói gì trong 24h qua ngoài câu dặn dò khôngtiếp ai cả. Nửa ngày thứ bẩy, cả ngày chủ nhật và sáng thứ hai Thiệu rút vào cô độc, không ăn uống gì mặc dầu tronghầm chứa nhiều thức ăn... Phòng báo chí vẫn loan baotóng thống sẽ dự lễ kỉ niệm Hùng Vương vào chiều thứ hai. 400 nhà báo nước ngoài vẫn chờ sẵn để quan sát tổng thống vào thời điểm khủng khoảng.

Cùng lúc ấy Lê Minh Đảo, chỉ huy sư đoàn 18 ở Xuân Lộc biết rằng thành phố kể như tiêu rồi. Đêm chủ nhật, sáng thứ hai, Cộng Sản đã chuyển quân vào để dứt điểm. Lữ đoàn dù SG đã sa lầy trong rừng cao su, trung đoàn dự bị của sư đoàn không hy vọng chọc thủng vòng vây nữa. Suốt đem, tỉnh lỵ bị pháo kích. Hoả lực tấn công của Cộng Sản còn hơn bất kỳ đơn vị bộ binh Mỹ mà Đảo đã biết. Tiền đồn xung quanh Xuân Lộc lần lượt sụp đổ.

Sau rạng đông, Đảo nói chuyện bằng điện đài với sở chỉ huy Biên Hoà. Biết là Toàn không có mặt tại đó, nhưng đã dặn lại truyền lệnh giữ Xuân Lộc càng lâu càng tôt. Không còn kiểu ra lệnh của Thiệu là giữ bằng mọi giá. Đến nửa buổi sáng thí sư đoàn 18 rõ ràng là tuyệt vọng. Xuân Lộc, biểu tượng tử thủ của quân đội SG sắp sụp đổ. Đảo ra lệnh rut bỏ vị trí và chạy.

Thiệu cũng bước ra khỏi hầm, tâm trạng âu sầu. Tay tổng thống quyết định rồi, sang phòng họp phía tây, lấy giấy but soạn thảo diễn văn. Thiệu muốn họp với tả hữu tin cậy không còn nửa tá và ra lệnh gọi Martin sau 1h nũa có mặt ở dinh tổng thống.

Các nhân viên quanh Thiệu nhanh chóng loan truyền tin Thiệu sắp từ chức. Một nhà báo Mỹ bèn gọi một cú điện đến hỏi Martin. Thế nhưng viên đại sứ lại hiểu tay tổng thống hoàn toàn trai ngược. Theo lời Martin, Thiệu có ý định ở lại chức vụ và đang chống cự với mọi nỗ lực tìm cách phế truất y. Qua truyền hình, Thiệu có ý định đòi hỏi bỏ phiếu tín nhiệm và Martin tiên đoán là Thiệu sẽ thắng.

Bài diễn văn của Thiệu nói trước đám viên chức là những lời lẽ quyết liệt. Nó được đưa lên truyền hình lúc 8h tối. Tay tổng thống noi "tình hình thật khẩn cấp", gần như phải rut lui đến dinh Độc Lập. Nếu người Mỹ chỉ cần can thiệp vào như họ đã hứa thì Nam Việt Nam đâu đến nỗi nào đang phai đương đầu với nguy cơ sắp mất thủ đô. Thiệu cả gan nói láo rằng cái gì đã xảy ra ở vùng cao nguyên là do quyết định của viên chỉ huy quân khu 2. Lệnh rut lui của cấp chỉ huy quân khu 2 tất yếu dẫn tới việc quân khu 1.

Khi Mỹ rut khỏi Nam Việt Nam năm 1973, quân đội SG mất 63% sức mạnh quân sự. Tay tổng thống ngừng nói, cắn môi rõ ràng là để cầm nước mắt. Thiệu nói: "Người Mỹ các ông... không chịu cho chúng tôi viện trợ mà các ông hứa hẹn. Tức là không ủng hộ chúng tôi nữa. Thế thì được rồi, tôi sẽ ra đi. Nếu người Mỹ không giúp đỡ Nam Việt Nam nữa hãy để họ ra đi, cút đi, hãy để họ nuốt hết những lời hứa của họ". Thiệu thay đổi giọng điệu nhanh chóng và tuyên bố từ chức.

Dân chúng thở phào nhẹ nhõm trước sự từ chức của Thiệu. Con người bị khinh miệt nhất trong đất nước đã bước xuống, chấm dứt nhu cầu đảo chính, nhưng khả năng thương lượng vẫn mong manh. Chẳng có cách gì để lấy lại đất đã mất. Ít ai cảm thấy quân đội Sài Gòn có thể bảo vệ nổi phần còn lại của Nam Việt Nam. Vậy mà định thương lượng tức là sẵn sàng quỳ xuống để đối phương nhổ nước bọt vào mặt.

Bộ đội Bắc Việt Nam tiếp tục đổ xuống theo các quốc lộ hướng về Sài Gòn, sư đoàn nối tiếp sư đoàn, đặc biệt ở phía Bắc và Tây Bắc xuống. Trong phần lớn đoạn đường, họ ngồi trên xe tải và xe tăng. Một chố giao lưu quan trọng là Đồng Xoài, cách Sài Gòn 35 dặm về phía Bắc. Tại đây, điểm giao nhau giữa các cánh quân xuất phát từ đường mòn Hồ Chí Minh, từ vùng biên giới Campuchia, từ vùng Đông Bắc, nơi các sư đoàn chiến thắng ở cao nguyên, Đà Nẵng và Nha Trang đổ về Sài Gòn. Xe vận tải nối tiếp nhau đi ngang qua Đồng Xoài, nơi trước đây có một trại lính mũ nồi xanh của Mỹ, đã bị tràn ngập. Các loại xe chuyên môn cũng đã quá nhiều, không thể đếm được. Chúng chở cầu, kéo pháo, chở xăng cho xe tăng và các loại xe khác

Một công-voa kéo dài 3 ngày xuất phát từ các dãy núi. Nó được gọi là Trường Sơn, đặt theo tên vùng cao nguyên mà nó đi ngang qua. Công-voa hầu hết là xe vận tải mới của Bắc Việt Nam mà theo như những người lái chúng cho biết là mang đủ đạn cho trận đánh một tháng.

Cuộc vây hãm Sài Gòn đang được dựng lên. Từ Đồng Xoài, hàng trăm xe tải thẳng hướng Tây, tiến về Tây Ninh, Bình Dương. Những chiếc khác đi thẳng hướng Đông theo quốc lộ 1đến Biên Hoà. Hàng trăm chiếc khác xuôi những con đường ít ai biết đến để ra Vũng Tàu và bờ biển. Vòng vây đặt quanh Sài Gòn không phải là một vòng tròn nhưng toàn vẹn và chặt chẽ. Thậm chí cả về phía Nam, nơi còn một chút kiểm soát của quân đội Sài Gòn, Cộng Sản vẫn đang đi vào vị trí để vây bọc và cắt đứt liên hệ giữa vùng châu thổ với Sài Gòn. Máy bay của không quân phần lớn chẳng có thể tìm ra các công-voa. Giả dụ dân chúng tìm ra thì cũng chẳng đủ máy bay, rồi dù có máy bay cũng chẳng có phi công nào liều chết bay đi khi đã nhan nhản tin đồn về loại tên lửa phòng không vác vai tuyệt diệu SA.7 xuất hiện trong đội hình các đoàn quân ấy.

Trong tầm pháo của Sài Gòn, bộ đội công binh Cộng Sản đặt một chiếc cầu trong vòng không đầy một ngày. Với nó, hàng tá xe tăng, đại bác hạng nặng và mấy chục xe vận tải vượt sông Đồng Nai để tấn công Sài Gòn từ hướng Tây. Khoảng chừng hơn10 sư đoàn đã bao quanh Sài Gòn và nằm im chờ lệnh tấn công. Nửa tá các sư đoàn khác đang đứng sau lưng họ, sẵn sàng bổ xung cho tuyến xung phong. Về phía Bắc và Đông Bắc, Cộng Sản ở trong vòng 20 dặm đối với thủ đô. Về phía Đông, họ cách chừng 30 dặm. về phía Tây và Tây Nam, sau khi Thiệu từ chức, Cộng Sản đang thay đổi đội hình nhưng cũng chỉ cách Sài Gòn vào khoảng 30-35 dặm.

Đến ngày 26-4, Sài Gòn là mục tiêu nằm trong tình thế đợi phía bên kia bấm nút. “Người Mỹ các ông” lừng khừng không di tản sao được nữa.

Không có nhận xét nào: